Search This Blog

Thursday, January 26, 2012

TÍNH TÌNH CỦA NHÓM SỐ 2

LÀ NHỮNG NGƯỜI CÓ TÊN HAY NGÀY SANH BẰNG 2 , 11 , 20 .

                                        Ý NGHỈA CỦA SỐ 2

Số 2 tuợng trưng cho sự tuởng tuợng , tình mẩu/phụ tử , và tính  dể cảm xúc .Nó củng là số của sự thụ thai , sanh đẻ và giấc mơ . Nguời  số 2 là nguời sanh vào ngày 2 , 11 , 20 , hay 29 trong tháng . 
Nhửng thái độ và đặc tính của số 2 sẻ định kỳ biểu lộ bởi nguời số 2 , và sẻ tuơng tác với cá tính/nhân cách (personality)  của nguời đó trong nhiều cách khác nhau , tùy thuộc vào con giáp (theo tử vi tây phuơng) của cá nhân đó .
Nếu con giáp của bạn là :
1/ Cancer/Bắc giải : Số 2 sẻ gia tăng nhửng cá tính (personality traits)  của con giáp này .
2/ Capricorn/Nam dương  : Số 2 đôi khi đối nghịch với nhửng động lực (motives) của con giáp này , nhưng , với cố gắng ,  có thể đuợc dùng để cân bằng với bản chất (nature) của con giáp này .
3/ Scorpio , Pisces , Virgo , Taurus / Hổ cáp , Song ngư , Xử nử , Kim ngưu  : Số 2 sẻ hài hòa tốt đẹp với đặc tính (character) của các con giáp này .
4/ Aries , Libra , Gemini , Sagittarius , Aquarius ,  Leo /   Miên dương , Thiên xứng , Song nam , Nhân mã , Bảo bình , Hải sư : Số 2 sẻ tuơng phản gay gắt với nhửng bản tính (instincts) của nhửng con giáp  này . Thỉnh thoảng (on occasion)  nó xuất hiện nơi nhân cách của nhửng nguời này thì cách cư xử (behavior) của họ sẻ khác thuờng (unusual)  (nếu so với thái độ thuờng ngày của họ ) ,  đến nổi điều này sẻ gây ngạc nhiên kẻ khác , và thuờng sẻ gây ngạc nhiên cho cả chính họ .
                                
                                  TÍNH TÌNH CỦA NHÓM SỐ 2

Định nghỉa sau đây áp dụng cho nguời có ngày sanh kể trên củng như cho nguời có tên cộng lại củng bằng như vậy . Nguời số 2 thuờng mơ tuởng hảo huyền , có khuynh huớng sợ điều chưa biết và nhửng gì xa lạ . Họ rất giàu tuởng tuợng và sáng tạo , nhưng không luôn luôn có hai  tính này khi họ thực hiện kế hoạch hay ý tuởng của họ . Phần lớn nguời  số 2 ít khi khỏe mạnh như các nguời sinh ngày 1, 9, 3, hay 6 .
Họ có bản tính rất lảng mạn , và bí mật/kín đáo . Trực giác phát triển cao . Một trong nhửng điểm nổi bật của họ là sợ mất mát . Họ sợ mất đủ mọi thứ như : mất tình yêu , nhà cửa  , tiền , tình bạn , việc làm – mất nguời thân yêu do chết chóc hay do các hình thức  chia ly khác . Họ cần một ngôi nhà làm căn cứ , và dù cho họ thích thuờng xuyên du lịch khắp thế giới khi tài chính cho phép , họ phải có một ngôi nhà  để trở về . Họ không thể nào làm “nguời lính đánh thuê “ , vì chỉ có nhà là nơi  họ có thể treo nón . Họ hết lòng một cách  quá đáng  hay để hết tâm trí  (theo nghỉa  tiêu cực hay tích cực) đối với cha mẹ , đặc biệt là Mẹ .Họ củng là bậc cha mẹ lý tuởng , nhưng họ phải cẩn thận không nên bao bọc/phủ kín  con cái với một tình yêu có tính chiếm hửu .
Nguời số 2 rất cực kỳ quan tâm đến sự an vui/hạnh phúc của bè bạn và thân nhân . Họ để mắt đến mọi nguời , bảo đảm các nguời này không bị cảm cúm , không xài  tiền bừa bải , và v.v...   “ Hảy ăn tí cháo gà nóng và mang vớ vào ; không thì chết vì sưng phổi đấy . “ Nguời số  2 rất thận trọng , và ghét cờ bạc hay trò chơi may rủi . Họ yêu  tiền , nhưng thích tích lủy  chúng  một cách an toàn , ổn định , rồi đầu tư một cách bảo đảm , sao cho chúng  có thể gia tăng qua tiền lải cổ phiếu và tiền lải . Họ củng rất bí mật , và không bao giờ để ai biết buớc đi sắp tới là gì . Họ là chuyên gia trong việc lấy bí mật từ kẻ khác , nhưng họ không cho bạn xâm nhập vào sự riêng tư của họ . Họ đổi chiều từ phải qua trái và thụt lùi , rồi bất thình lình lao tới truớc tấn công mục tiêu . Tiền bạc hình như dính vào họ như keo , do vậy bạn hầu như không bao giờ thấy nguời số 2 (hay nguời số 8 ) xin welfare hay food stamp . Họ rất bác ái/thuơng nguời  ( đặc biệt với gia đình ) và có khuynh huớng cầm đầu  các việc gây quỷ cứu trợ , nhưng họ sẻ rùng mình ngay cả khi nghỉ đến việc xin cứu trợ cho chính họ   . Họ luồn lách né tránh thất bại để bảo vệ  tài sản , đây là tội lổi chủ yếu của  họ . Khi nguời số 2 học đuợc cách vuợt qua sự sợ hải , tính khư khư giử  của , và sự thận trọng không cần thiết ; thì sự giàu tuởng tuợng , tính  thích ứng , và trực giác của họ sẻ giúp họ đạt  đuợc mọi giấc mơ của họ .
( Dịch xong lúc 11:27 tối ngày 01/04/2010  từ trang 229-230 của quyển Linda Goodman's Star Signs) .

Tuesday, January 24, 2012

CÁCH NHÉT (INSERT) CHỬ TRÊN WORDPAD 

KHI XỬ DỤNG WORDPAD , TÔI GẶP TRỞ NGẠI LÀ KO THỂ NHÉT (INSERT) CHỬ VÀO PHẦN ĐẢ ĐÁNH MÁY XONG . CỨ NHÉT CHỬ VÀO LÀ NÓ NUỐT LUÔN CHỬ ĐẰNG SAU NÓ . VÀO PHẦN HELP , ĐỌC TRÊN MẠNG , GỎ VÀO CHỬ INSERT CỦNG KO TÁC DỤNG . CUỐI CÙNG , TÔI THỬ CLICK VÀO CHỔ MÌNH MUỐN NHÉT CHỬ , SAU ĐÓ NHẤP INSERT THÌ CÓ HIỆU QUẢ . CÁC BẠN BIK TẠI SAO KO ? VÌ KHI  BẠN BỰC MÌNH NHƯ VẬY THÌ BẠN MỚI MUA PHẦN MỀM NHƯ OFFICE 2003 HAY MỚI HƠN  !!!
      (WORDPAD LÀ PHẦN MỀM XỬ LÝ VĂN BẢN CÓ SẲN TRONG WIN 7 , RẤT THÔ SƠ NẾU SO VỚI OFFICE 2003 HAY MỚI HƠN ; NÓ THUA CẢ OPENOFFICE MIỂN PHÍ . DÙNG OPENOFFICE THÌ BẤT TIỆN Ở CHỔ NGƯỜI NHẬN CỦNG PHẢI CÓ NÓ MỚI ĐỌC ĐC VĂN BẢN CỦA MÌNH ) .

Monday, January 23, 2012

Cách bookmark (đánh dấu)  một email address (E.A.) nếu bạn có nhiều E.A. , áp dụng trên trình duyệt/browser Firefox . 


       Trước nhứt mở Firefox , ở search bar  bạn chỉ cần gỏ yahoo ma , (xem hình)


vâng yahoo ma (máy tính nó khôn lắm)  thì nó sẻ đưa đến 1 trang . Chọn Sign in to Yahoo > nhập username và PW . Bạn sẻ thấy trang Inbox (thư đến) , xem hình .


     Tới đây , nhấp vào ngôi sao trên address bar (xem hình) HAI LẦN .


     Khi 1 dialog hiện , ở Name thì chọn bất cứ từ hay ký tự nào  (như YM1) -  làm sao đừng để  lầm lộn với các E.A. còn lại ; ở  Folder thì chọn Bookmark Toolbar . Xong > Done . Thế là bạn đả đưa một E.A. vào Toolbar này . Bạn lần lượt áp dụng các bước trên với các E.A. còn lại .
    Từ đó về sau , chỉ cần nhấp vào 1 trong nhửng bookmark này , bạn sẻ đến ngay Inbox của E.A. đó . Nên nhớ : chỉ làm điều này khi bạn là ng duy nhứt xử dụng máy tính đó . Chúc bạn thành công ,

Saturday, January 21, 2012

Ý NGHỈA CỦA SỐ 22 , DỰA THEO LÝ THUYẾT SỐ/NUMEROLOGY  

                                     SỰ PHỤC TÙNG - LỜI CẢNH BÁO
                                      (SUBMISSION – AND CAUTION)

Theo bà Goodman (1) thì “ số 22 được tượng trưng bởi hình ảnh một Người Tốt (Good Man) bị mờ mắt vì sự ngu dốt (folly) của nhửng kẻ khác . . . Trên hình vẻ cho thấy người này có vẻ không phòng thủ gì trước một con cọp dử đang bắt đầu tấn công hắn . Số này củng cảnh báo về ảo tưởng và lừa dối . Nó cho thấy một người tốt (hoặc thực thể) đang sống trong hạnh phúc và thỏa mản , và tin tưởng không có vấn đề gì xảy ra , nhưng thực tế thì không phải vậy . Nó cho thấy một người đang nằm mơ , chỉ thức dậy khi nguy hiểm bao quanh hắn , nhưng lúc đó thì quá muộn . Nó cảnh báo về nhửng sai lầm trong phán đoán , khi đặt lòng tin vào nhửng kẻ không đáng tin cậy . . . “ . Nếu 22 là ngày sanh , người này nên cẩn thận và luôn  cảnh giác/canh chừng  ( caution and watchfulness )  trong nhửng vấn đề về nghề nghiệp và cá nhân . Điều bắt buộc về nghiệp quả (karmic obligation) đối với người này là phải tỉnh táo (alert) hơn  , phải kềm chế (curb) sự lười biếng về tâm linh  , và phát triển hơn sự năng nổ về tâm linh – để thực hiện khả năng riêng (của mình) nhằm thay đổi sự việc , củng như để ngăn ngừa sự thất bại bắng cách quyết tâm đạt được sự thành công ( by simply ordaining success ) . Khi trách nhiệm cá nhân này được nhìn nhận , thực hành và cuối cùng  được  nắm vửng (mastered), người mang số 22 sẻ làm chủ mọi sự kiện , không còn bị mờ mắt bởi sự ngu dốt của kẻ khác , và sẻ thấy ý tưởng và niềm mơ ước của mình được thực hiện . Bất cứ ai sanh ngày 22 cần phải đọc đoạn nói về số 4 và 8 , bắt đầu ở trang 269 . /.(Trang 258-259 của sách Linda Goodman’s Star Signs) .
(1) Bà này là chiêm tinh gia hàng đầu của Mỷ , nay đả quá cố . Bà viết nhiều sách về Lý Thuyết Số , trong đó có quyển trên .




Wednesday, January 11, 2012

ÔNG CHA TA ĐỜI XƯA ĐẢ PHÒNG CHỐNG THAM NHŨNG NHƯ THẾ NÀO ? 


Nguồn : Việt Nam Văn Hóa Sử Cương , được viết năm 1938 bởi cụ Đào Duy-Anh .

       I/ Ở sách đả dẩn , sau khi mô tả cách tuyển lựa quan lại dưới các triều đại phong kiến Việt Nam , ở trang 149 cụ đả viết về nhửng quyền hạnquyền lợi của các quan như sau :
       "... Các quan tại triều là những người giúp đỡ vua mà đảm đang quốc chính . Các quan ngoại chức (coi các tỉnh , phủ , huyện , châu ) là những người vâng mệnh thay mặt vua để cai trị nhân dân . Bởi thế nên các quan cũng như vua , người dân thường gọi là cha mẹ dân . So với dân , các quan là một hạng người có những đặc quyền xứng đáng với tư cách “dân chi phụ mẫu” . Quan không phải chịu thuế thân ; ngoài tiền lương quan còn có tiền dưởng liêm (cấp cho các quan địa phương những khi họ túng thiếu để họ khỏi nhũng lạm của dân) cùng lộc điền (ruộng cấp cho những người có tước lộc) . Người nào xâm phạm đến danh dự hay sinh mệnh của ông quan thì bị xử tội nặng hơn là xâm phạm người thường ; mưu hại ông quan từ ngũ phẩm trở lên là một tội thập ác (1). Quan lại phạm tội , phải có chiếu vua thì pháp quan mới được thẩm vấn . Cha mẹ quan lại cũng được phong phẩm hàm ngang với con . Đó là lược cử một ít các quyền rõ ràng khiến quan lại tuy không phải là một giai cấp quí tộc mà cũng là một hạng người cao quí được thiên hạ tôn kính và thèm thuồng . Bởi thế người nào cho con đi học cũng hy vọng cho nó được làm quan , mà đứa trẻ đương để trái đào mới cắp sách đi học cũng đã hoài bảo một ông quan trong mộng tưởng" .
        II/ Ở trang 150 , cụ lại cho ta thấy cách phòng chống tham nhũng dưới thời phong kiến :
        " Quan lại tuy có nhiều đặc quyền , song cũng không phải ở trên pháp luật . Nhà vua sợ các quan lạm dụng những đặc quyền ấy mà vũ uy tác tệ , cho nên đã đặt nhiều điều lệ để chế tài các quan . Ví dụ pháp luật cấm quan địa phương không được thụ nhiệm ở tỉnh nhà , hay ở nơi cách tỉnh nhà dưới 500 dặm để cho thân thích bằng hữu khỏi cậy thế cậy thần mà làm ngang ; cấm không được lấy vợ trong trị hạt vì sợ gia đình nhà vợ nhũng nhiễu ; cấm không cho tậu ruộng vườn cửa ở trong trị hạt , vì sợ quan hiếp bách kẻ trị hạt để mua rẻ ; cấm không được tư giao với đàn bà con gái trị hạt để đừng treo gương xấu cho nhân dân ; cấm quan lại hồi hưu không được lui tới cửa công để thỉnh thác cầu cạnh . Ngoài ra còn nhiều trừng trị các quan hối lộ và nịch chức , nếu thi hành cho nghiêm mật thì cũng có thể tránh được những tệ tham quan ô lại mà ta thường thấy làm cực khổ nhân dân" . 

Nhận xét : tôi nghĩ ngày xưa , do bị ràng buộc hay chế tài bởi những điều lệ như trên ,  các quan ít hay khó tham nhũng như bây giờ . Thế mới thấy tổ tiên ta khi đặt ra các điều lệ này đã rất cao kiến . Nếu luật này ngày nay được áp dụng ở Việt Nam , chắc ít ai chịu đi làm quan !!!
 
Chú thích : (1) Thập ác là 10 tội lớn . Mưu loạn (mưu làm hại xã tắc) ; mưu đại nghịch (phá hủy lăng miếu) ; mưu phản (theo địch mà phản quốc) ; ác nghịch (đánh hay giết cha mẹ ông bà) ; bất đạo (giết ba người vô tội trong một họ , hay cắt da thịt người sống để làm thuốc độc hoặc bùa …) ; đại bất kính (thất kính đối với vua , như ăn trộm đồ thờ ở lăng miếu , đồ xa giá của vua …) ; bất hiếu (chưởi mắng hay nói xấu cha mẹ ông bà , không để tang cha mẹ ông bà …) ; bất mục (mưu sát hay là bán bà con trong hàng ty thôi trở lên …) ; bất nghỉa (dân giết cha mẹ của quan , binh lính và hạ lại giết quan trên …) ; nội loạn (tức là loạn luân) .

Tuesday, January 10, 2012

 GIẤY CHỨNG NHẬN... NGƯỜI"
(Chuyện xảy ra ở TQ , chép từ trên mạng).
Trên đoàn tàu, cô soát vé hết sức xinh đẹp cứ nhìn chằm chằm vào người đàn ông lớn tuổi áng chừng đi làm thuê, hạch sách: -Vé tàu!
Người đàn ông lớn tuổi lục khắp người từ trên xuống dưới một thôi một hồi, cuối cùng tìm thấy vé, nhưng cứ cầm trong tay không muốn chìa ra.
Cô soát vé liếc nhìn vào tay anh, cười trách móc:
- Đây là vé trẻ em.
Người đàn ông đứng tuổi đỏ bằng mặt, nhỏ nhẹ đáp:
-Vé trẻ em chẳng phải ngang giá vé người tàn tật hay sao?
Giá vé trẻ em và người tàn tật đều bằng một nửa vé, đương nhiên cô soát vé biết. Cô nhìn kỹ người đàn ông một lúc rồi hỏi:
-Anh là người tàn tật?
-Vâng, tôi là người tàn tật.
-Vậy anh cho tôi xem giấy chứng nhận tàn tật.
Người đàn ông tỏ ra căng thẳng. Anh đáp:
-Tôi... không có giấy tờ. Khi mua vé cô bán vé bảo tôi đưa giấy chứng nhận tàn tật, không biết làm thế nào, tôi đã mua vé trẻ em
Cô soát vé cười gằn:
-Không có giấy chứng nhận tàn tật, làm sao chứng minh được anh là người tàn tật?
Người đàn ông đứng tuổi im lặng, khe khẽ tháo giầy, rồi vén ống quần lên - Anh chỉ còn một nửa bàn chân.
Cô soát vé liếc nhìn, bảo:
- Tôi cần xem chừng từ, tức là quyển sổ có in mấy chữ "Giấy chứng nhận tàn tật", có đóng con dấu bằng thép của Hội người tàn tật!
Người đàn ông đứng tuổi có khuôn mặt quả dưa đắng, giải thích:
- Tôi không có hộ khẩu của địa phương, người ta không cấp sổ tàn tật cho tôi. Hơn nữa, tôi làm việc trên công trường của tư nhân. Sau khi xảy ra sự cố ông chủ bỏ chạy, tôi cũng không có tiền đến bệnh viện giám định...
Trưởng tàu nghe tin, đến hỏi tình hình.
Người đàn ông đứng tuổi một lần nữa trình bày với trưởng tàu, mình là người tàn tật, đã mua một chiếc vé có giá trị bằng vé của người tàn tật ...
Trưởng tàu cũng hỏi:
- Giấy chứng nhận tàn tật của anh đâu?
Người đàn ông đứng tuổi trả lời anh không có giấy chứng nhận tàn tật, sau đó anh cho Trưởng tàu xem nửa bàn chân của mình.
Trưởng tàu ngay đến nhìn cũng không thèm nhìn, cứ nhất quyết nói:
- Chúng tôi chỉ xem giấy chứng nhận, không xem người. Có giấy chứng nhận tàn tật mới được hưởng vé người tàn tật. Anh mau mau mua vé bổ sung.
Người đứng tuổi bỗng thẫn thờ. Anh lục khắp lượt các túi trên người và hành lý, chỉ có bốn đồng, hoàn toàn không đủ mua vé bổ sung. Anh nhăn nhó và nói với trưởng tàu như khóc:
- Sau khi bàn chân tôi bị máy cán đứt một nửa, không bao giờ còn đi làm được nữa. Không có tiền, ngay đến về quê cũng không về nổi. Nửa vé này cũng do bà con đồng hương góp mỗi người một ít để mua giùm, xin ông nương bàn tay cao quý, tha cho tôi.
Trưởng tàu nói kiên quyết:
- Không được.
Thừa dịp, cô soát vé nói với Trưởng tàu:
- Bắt anh ta lên đầu tàu xúc than, coi như làm lao động nghĩa vụ.
Nghĩ một lát, trưởng tàu đồng ý:
- Cũng được.
Một đồng chí lão thành ngồi đối diện với người đàn ông đứng tuổi tỏ ra chướng tai gai mắt, đứng phắt lên nhìn chằm chằm vào mắt vị trưởng tàu, hỏi:
- Anh có phải đàn ông không?
Vị trưởng tàu không hiểu, hỏi lại:
- Chuyện này có liên quan gì đến tôi có là đàn ông hay không?
- Anh hãy trả lời tôi, anh có phải đàn ông hay không?
- Đương nhiên tôi là đàn ông!
- Anh dùng cái gì để chứng minh anh là đàn ông? Anh đưa giấy chứng nhận đàn ông của mình cho mọi người xem xem?
Mọi người chung quanh cười rộ lên.
Thừ người ra một lát, vị truởng tàu nói:
- Một người đàn ông to lớn như tôi đang đứng đây, lẽ nào lại là đàn ông giả?
Đồng chí lão thành lắc lắc đầu, nói:
- Tôi cũng giống anh chị, chĩ xem chứng từ, không xem người, có giấy chứng nhận đàn ông sẽ là đàn ông, không có giấy chứng nhận đàn ông không phải đàn ông.
Vị trưởng tàu tịt ngóp, ngay một lúc không biết ứng phó ra sao.
Cô soát vé đứng ra giải vây cho Trưởng tàu. Cô nói với đồng chí lão thành:
- Tôi không phải đàn ông, có chuyện gì ông cứ nói với tôi.
Đồng chí lão thành chỉ vào mặt chị ta, nói thẳng thừng:
- Cô hoàn toàn không phải người!
- Cô soát vé bỗng nổi cơn tam bành, nói the thé:
- Ông ăn nói sạch sẽ một chút. Tôi không là người thì là gì?
Đồng chí lão thành vẫn bình tĩnh, cười ranh mãnh, ông nói:
Cô là người ư? Cô đưa giấy chứng nhận "người" của cô ra xem nào...
Mọi hành khách chung quanh lại cười ầm lên một lần nữa.
Chỉ có một người không cười.
Theo Úc Thanh (Trung Quốc)
Tình báo Mỹ: Iran sắp rải thủy lôi ở eo biển Hormuz

Friday, 12.30.2011, 06:54am (GMT-8)

Website chuyên về tin tình báo DEBKAfile ngày 29-12 cho biết các lực lượng Mỹ và NATO tại Vịnh Persian đã được đặt trong tình trạng báo động sau khi tình báo Mỹ cảnh báo lính biệt kích hải quân Iran sắp rải thủy lôi tại eo biển Hormuz.
Theo tình báo Mỹ, Iran có kế hoạch thả thủy lôi tại Hormuz và vùng biển đối diện với các giếng dầu và bến tàu của các nước sản xuất dầu lửa ở vịnh Persian, trong đó có Ả Rập Saudi.
Mỹ cho rằng biệt kích Hải quân Iran sắp rải thủy lôi ở eo biển Hormuz. Ảnh: Reuters\
Tehran hy vọng thủy lôi sẽ làm nổ tung tàu chở dầu và tàu bè khác qua lại vùng biển này. Chỉ cần vài quả thủy lôi và một vụ nổ như vậy là đủ để khiến các chủ tàu và thủy thủ không dám mạo hiểm băng qua khu vực này, không cần Iran phải phong tỏa hoàn toàn eo biển Hormuz như đe dọa.
Trước thông tin trên, Mỹ đã ra lệnh Lực lượng Phối hợp tác chiến 52 (CTF 52) chuyên tháo gỡ thủy lôi sẵn sàng làm nhiệm vụ. Dẫn đầu CTF 52 là tàu tháo mìn USS Arden. Các nguồn tin của quân đội Mỹ tiết lộ tàu phá thủy lôi của nước này có thể dọn sạch khu vực trong vòng 24 – 48 giờ.
Cùng với CTF 52 của Mỹ, NATO cũng báo động lực lượng xử lý thủy lôi SNMCMG2 do tàu quét thủy lôi HMS Pembroke của Anh dẫn đầu.
Iran hy vọng một vụ nổ ở eo biển Hormuz chiến lược... Đồ họa: Daily Mail
...là đủ để tàu thuyền không dám mạo hiểm băng qua khu vực này. Ảnh: Reuters
Các nguồn tin trên cũng cảnh báo những đe dọa liên tiếp của Iran về việc đóng cửa eo biển Hormuz trong tuần qua và cuộc tập trận 10 ngày Veleyati 90 cho thấy Tehran có ý định đáp trả mạnh tay các biện pháp trừng phạt cứng rắn mà phương Tây lên kế hoạch vào tháng tới. Vòng trừng phạt mới này dự kiến sẽ tước mất 80% nguồn thu của Iran.
Dù chưa từng thừa nhận nhưng Iran bị cho là đã thả thủy lôi tại vịnh Persian năm 1987 và 1988 để trả đũa việc Mỹ và các Tiểu vương quốc vùng Vịnh ủng hộ Iraq trong cuộc chiến kéo dài với Tehran. Nhiều tàu chở dầu và tàu chiến của Mỹ đã vướng phải số thủy lôi này, trong đó có tàu USS Samuel B. Roberts.

Phát ngôn viên hạm đội 5 lên tiếng
Đệ Ngũ Hạm đội của Hải Quân Hoa Kỳ ở eo biển Hormuz ?
tka23 post


Hạm đội 5 của Mỹ hôm qua (28/12) đã tuyên bố một cách cứng rắn rằng, lực lượng này sẽ không cho phép và cũng không dung thứ cho bất kỳ hành động gây cản trở giao thông nào ở Eo biển Hormuz – một trong những tuyến đường biển chiến lược quan trọng nhất thế giới.

"Sự tự do đi lại của tàu thuyền chở hàng hóa và dịch vụ qua Eo biển Hormuz là vô cùng quan trọng đối với sự thịnh vượng của khu vực và toàn cầu. Vì thế, bất kỳ Ai đe dọa sự tự do đó tại một eo biển quốc tế sẽ chứng tỏ đó là kẻ đứng bên ngoài cộng đồng các quốc gia và bất kỳ hành động gây cản trở nào cũng sẽ không được dung thứ",
Tuyên bố thẳng thừng và mạnh mẽ một cách bất thường trên của nữ phát ngôn viên quân đội Mỹ được đưa Ra ở trên là nhằm đáp trả những lời đe dọa liên tục của Iran gần đây về việc đóng cửa Eo biển Hormuz nếu phương Tây thực hiện các biện pháp trừng phạt mới nhằm vào ngành công nghiệp dầu mỏ của nước này.

Ông Mohammed Reza Rahimi, Phó Tổng thống Iran, hôm 27/12 đã tuyên bố trên các phương tiện truyền thông quốc gia rằng: “Nếu các biện pháp trừng phạt nhằm vào ngành dầu khí Iran được thực hiện thì sẽ không có một giọt dầu nào đi qua được Eo biển Hormuz. Các kẻ thù của chúng tôi sẽ phải từ bỏ âm mưu của họ khi chúng tôi dạy cho họ một bài học lớn”.

Tiếp lời ông Rahimi, Đô đốc Habibollah Sayari, Chỉ huy Lực lượng Hải quân Iran, nhấn mạnh, việc đóng cửa Eo biển Hormuz và từ đó bóp nghẹt đường cung cấp dầu mỏ cho thế giới sẽ “dễ hơn cả việc uống một cốc nước".
Những phát biểu của Đô đốc Sayari được đưa Ra đúng thời điểm hạm đội Iran đang tham gia một cuộc tập trận hải quân lớn kéo dài 10 ngày ở vùng biển quốc tế, gần Eo biển Hormuz. Cuộc tập trận này có sự xuất hiện của một loạt tàu chiến, trực thăng, tàu ngầm và tàu đệm khí.
Hoạt động phô trương sức mạnh trên của Iran được cho là nhằm để chứng tỏ khả năng nước này có thể đóng cửa Eo biển Hormuz nhanh chóng như thế nào. Eo biển Hormuz là một eo biển hẹp nối vùng Vịnh Persian với Biển Ả-rập. Nó có tầm quan trọng chiến lược hàng đầu thế giới khi hơn 1/3 (khoảng 40%) nguồn cung cấp dầu mỏ cho thế giới phải đi qua eo biển này. Tính trung bình, mỗi ngày có khoảng 15 triệu thùng dầu đi qua Eo biển Hormuz.


Đệ Ngũ Hạm Đội HQ Hoa Kỳ
Theo các nhà phân tích, Iran có thể thực hiện những hoạt động phá hoại ở Eo biển Hormuz nhưng hải quân nước này sẽ không thể địch nổi với hỏa lực của Hạm đội 5 của Hải quân Mỹ.
Hạm đội này đang đóng tại Manama, cách bờ biển của Iran chỉ khoảng 160km.


Hạm đội 5 của Mỹ bao gồm hơn 20 tàu chiến, trong đó có một đội HKMH tấn công được hỗ trợ bởi một loạt chiến đấu cơ.
Có khoảng 15.000 quân nhân trên các con tàu thuộc Hạm đội 5 và khoảng 1.000 người trên bờ.

Trừng phạt
Chiến đấu cơ F/A-18C Hornet cất cánh từ HKMH lớp Nimitz USS John C. Stennis (CVN 74) thuộc Hạm Đội 5 HQ Hoa Kỳ trên vịnh Ả Rập (Arabian Gulf) hôm 23/11/2011

(U.S. Navy photo by Mass Communication Specialist 3rd Class Kenneth Abbate/Released)

Căng thẳng giữa Iran và phương Tây Leo thang sau khi ngoại trưởng các nước thành viên Liên Minh Châu Âu (EU) cách đây 3 tuần đã quyết định thắt chặt các biện pháp trừng phạt đối với nước xuất cảng dầu mỏ lớn thứ 5 của thế giới đồng thời để ngỏ khả năng áp dụng một lệnh cấm vận đối với dầu mỏ Iran. Đây là một biện pháp nhằm gia tăng áp lực buộc Iran từ bỏ chương trình hạt nhân gây tranh cãi của nước này.
Phương Tây cáo buộc Tehran đang tìm cách sản xuất bom nguyên tử. Tehran bác bỏ cáo buộc này, khẳng định chương trình hạt nhân của họ chỉ có mục đích hòa bình.
Những lời đe dọa của Iran gần đây đã làm giá dầu tăng hôm 27/12 và đã giảm nhẹ trở lại một ngày sau đó. "Lời đe dọa của Iran về việc đóng cửa Eo biển Hormuz đã đẩy giá dầu tăng cao nhưng ảnh hưởng của lời đe dọa này đã suy giảm dần. Lý do là đó chỉ là những lời đe dọa trống rỗng bởi Iran sẽ không thể gây cản trở đối với các hoạt động chuyên chở dầu qua Eo biển Hormuz khi mà Mỹ đang hiện diện tại đây",
ông Thorbjoern bak Jensen, một nhà phân tích, nhận định.

Bộ Ngoại giao Mỹ khẳng định, các tàu chiến của nước này đang đi tuần tra trong khu vực và sẽ giúp đỡ để bảo vệ sự đi lại tự do qua Eo biển Hormuz.
Trong khi đó, Pháp hôm qua đã lên tiếng kêu gọi Iran tuân theo luật quốc tế trong đó cho phép tất cả các tàu thuyền đi lại tự do qua Eo biển Hormuz.
Iran tiếp tục đối đầu với Mỹ và phương Tây xung quanh chương trình hạt nhân của nước này. Bất chấp sức ép dồn dập mà phương Tây nhằm vào Iran bằng những biện pháp trừng phạt liên tiếp với mức độ ngày càng mạnh mẽ, Tehran vẫn kiên quyết không chịu lùi bước.

Đệ Ngũ Hạm đội Hoa Kỳ

Đệ ngũ Hạm đội Hoa Kỳ
Fleet-5.jpg
Phù hiệu Đệ ngũ Hạm đội
Hoạt động 26 tháng 4, 1944 - tháng 1, 1947
1 tháng 7, 1995 - hiện tại
Quốc gia Hoa Kỳ
Binh chủng Hải quân Hoa Kỳ
Loại Hạm đội
Vai trò Hoạt động hạm đội trực tiếp
Bộ phận của Tổng Tư lệnh lực lượng Hải quân Hoa Kỳ, Bộ Tư lệnh miền Trung
Đồn trú/Tổng hành dinh Hoạt động Hổ trợ Hải quân Bahrain
Các tư lệnh
Tư lệnh hiện tại Phó Đô đốc Mark I. Fox
Tư lệnh nổi bật Đô đốc Raymond A. Spruance
US Aust UK warships Dec 02.jpg
Hạm đội 5 có trách nhiệm với các lực lượng hải quân trong Vịnh Ba Tư, Hồng Hải, Biển Ả Rập và ngoài khơi Đông Phi châu xa tận về phía nam như Kenya. Hạm đội có cùng Tư lệnh và tổng hành dinh với Bộ Tư lệnh miền Trung Tổng lực lượng Hải quân (Naval Forces Central Command).
Lịch sử
Đệ ngũ Hạm đội đầu tiên được thành lập vào ngày 26 tháng 4 năm 1944 từ Lực lượng miền Trung Thái Bình Dương và do Đố đốc Raymond Spruance chỉ huy nhưng bị giải tán sau chiến tranh. Các chiến hạm của Đệ ngũ Hạm đội cũng là của hạm dội 3
.Trong Chiến tranh Vùng Vịnh lần thứ nhất, vùng này được các chiến hạm từ các hạm đội mang số khác tuần tra nhưng không có một hạm đội thật sự nào tồn tại cho khu vực trách nhiệm đã được ấn định.
Vào tháng 7 năm 1995, một hạm đội mang số được nghĩ rằng là cần thiết. Sau 48 năm gián đoạn, Đệ ngũ Hạm đội đã được tái xây dựng và hiện tại đảm nhiệm tuần tra Vịnh Ba Tư, Hồng Hải, và biển Á Rập. Tổng hành dinh của hạm đội đặt tại Manama ở Bahrain.
Đệ ngũ Hạm đội là một bộ phận chỉ huy của Bộ tư lệnh miền Trung.
Trong những năm đầu có mặt của hạm đội, lực lượng của hạm đội thường thường bao gồm một Chiến đoàn Hàng không Mẫu hạm (Carrier Battle Group), một Đoàn Trực chiến Đổ bộ, các lực lượng tham chiến nổi , lực lượng tiềm thủy đỉnh, các phi cơ thám thính và tuần tra biển, và các tàu tiếp vận.
Tuy nhiên, với cuộc chiến chống khủng bố, chiến lược hải quân của Hoa Kỳ đã thay đổi. Các cuộc trang bị thời Chiến tranh Lạnh bây giờ là thuộc về quá khứ. Dần dần, chính sách luôn giữ một số chiến hạm trong những vùng nào đó của thế giới cũng đã qua. Tuy nhiên, như thông thường hạm đội hiện tại gồm có một Đoàn Công kích Hàng không Mẫu hạm, một Đoàn Trực chiến Đổ bộ hoặc Đoàn Công kích Viễn chinh, và các chiến hạm, máy bay cùng với 15.000 người phục vụ trên các chiến hạm và 1.000 nhân sự hổ trợ trên bờ. [2]
Các lực lượng của Đệ ngũ Hạm đội hùng hậu nhất là đầu năm 2003, khi 5 Hàng không mẫu hạm của Hải quân Hoa Kỳ, 6 tàu chở trực thăng chiến đấu đổ bộ của Thủy quân lục chiến, các tàu hộ tống và tiếp vận, và trên 30 tàu của Hải quân Hoàng gia được đặt dưới quyền tư lệnh của Đệ ngũ Hạm đội.
Sau sự sụp đổ của Baghdad vào tháng 4 năm 2003, số lượng lớn các chiến hạm nhanh chóng được rút xuống. Trừ khi có các căng thẳng rất nghiêm trọng trong vùng, các lực lượng của hạm đội có thể sẽ ở mức độ thấp hơn so với trường hợp các năm vừa qua.
Cùng với Bộ Tư lệnh miền Trung Tổng Lực lượng Hải quân, Đệ ngũ Hạm đội giám sát 3 lực lượng đặc nhiệm đang theo dỏi các hoạt động trên biển: Lực lượng Đặc Nhiệm Kết hợp 158 trong Bắc Vịnh Ba Tư, Lực lượng Đặc Nhiệm Kết hợp 150 qua Sừng Phi châu, và Lực lượng Đặc Nhiệm 152 có thể trong Vịnh Oman và Biển Á Rập.

Các đơn vị trực thuộc

Lực lượng Đặc nhiệm 50, Lực lượng Chiến đấu
Lực lượng Đặc nhiệm 51, Lực lượng Đổ bộ
Lực lượng Đặc nhiệm 53, Lực lượng Tiếp vận
Lực lượng Đặc nhiệm 54, (Vừa là Lực lượng Đặc nhiệm 74) Lực lượng Tiềm thủy đỉnh
Lực lượng Đặc nhiệm 57, (Vừa là Lực lượng Đặc nhiệm 72) Lực lượng Thám thính và Tuần tra (Sử dụng máy bay thám thính và tuần tra biển P-3 và EP-3)
Lực lượng Đặc nhiệm 58, Lực lượng Thám sát Biển (Bắc Vịnh Ba Tư)
Lực lượng Đặc nhiệm 59, Lực lượng Viễn chinh/Lực lượng Biệt động (Khi cần, như tháng 7-8 năm 2006 thi hành sứ mệnh di tản ở Lebanon)
BKTT
*******************************************
-------------------------------------------------------------------------------

Mất RQ-170, Mỹ điều động UAV Predator C Avenger

tới Afghanistan.

Sau khi máy bay do thám tiên tiến RQ-170 bị Iran tấn công và thu giữ, Nhà trắng đã triển khai loại UAV tàng hình Predator - C Avenger ("Kẻ báo thù") tới Afghanistan.
UAV tàng hình Predator C Avenger.

UAV tàng hình Predator C Avenger.

Theo nguồn tin, Không quân Mỹ (USAF) dự định trang bị cho Avenger loại bom GBU-24 có trọng lượng nặng 900 kg để có thể xuyên phá được các mục tiêu trong lòng đất. Việc Predator - C tới Afghanistan được cho là để thay thế RQ-170 Sentinel vừa bị Iran "bắt sống". Tuy nhiên, USAF lưu ý rằng Predator - C không thể thay thế hoàn toàn cho RQ-170.

Đôi nét về UAV Predator - C Avenger.

Predator - C Avenger thực hiện chuyến bay đầu tiên vào tháng 4/2009, là một loại máy bay không người lái có khả năng "tàng hình", được General Atomics Aeronautical Systems phát triển.
Predator - C Avenger có nhiều điểm tương đồng với các dòng UAV tấn công như MQ-1 Predator và MQ-9 Reaper (Predator B) đang hoạt động trong biên chế Quân đội Mỹ. Những điểm giống nhau đó có thể được quan sát thấy thông qua kết cấu điều khiển, truyền động, khả năng mang vũ khí và các thiết bị theo dõi. Điểm khác biệt ở dòng Avenger mới là nó sử dụng động cơ phản lực cánh quạt thay vì động cơ cánh quạt như các UAV thế hệ cũ. Ngoài ra, UAV tấn công mới còn được trang bị thêm thiết bị hỗ trợ hạ cánh tốt hơn, phần thân của UAV này khá "mượt", có phần bè sang hai bên. Trong khi phát triển, nhà thiết kế đã ứng dụng các công nghệ tiên tiến để cho nó có thể tàng hình trước sự quan sát của các trạm radar đối phương. Predator - C được lắp đặt đầy đủ những hệ thống điện tử, cảm biến trinh sát tiên tiến nhất và có thể hoạt động trong một vùng không gian rộng lớn, cũng như thực hiện được một loạt các nhiệm vụ quân sự khác nhau. Với một động cơ phản lực cánh quạt Pratt &Whitney PW545B, "kẻ báo thù" tiêu thụ nhiên liệu thấp. Vì vậy mà thời gian hoạt động liên tục của nó lên tới 20 giờ, tốc độ bay lên đến trên 740 km/h, và độ cao tối đa hơn khoảng 16 km và có thể mang được tải trọng vũ khí lên tới 1.300 kg.

Predator C Avenger




http://uavbusinessreview.files.wordpress.com/2011/09/predator.jpg

ĐÁ NÁT VÀNG PHAI

Thứ bảy, 07 Tháng 1 2012 23:05 Kim Thanh / Đoản Văn Ức Trai
InPDF.
Thẹn mình đá nát vàng phai (Kiều)    

THƯA CÁC BẠN ,
TÔI VỪA NHẬN ĐC EMAIL NÀY . VÌ THẤY  NỘI DUNG RẤT Ý NGHỈA (VÌ MÔ TẢ ĐẦY ĐỦ NHỬNG CẢNH VẬT ĐỔI SAO DỜI ,  CỦNG NHƯ NHỬNG MẤT MÁT VỀ TÌNH YÊU , TÀI SẢN , SỨC KHỎE , V.V... MÀ HÀNG VẠN SỈ QUAN , CÔNG CHỨC CÁC CẤP  MIỀN NAM VIỆT NAM , TRONG ĐÓ CÓ TÔI , PHẢI CHỊU ĐỰNG  SAU NGÀY 30.4.1975) , NÊN  XIN ĐĂNG LẠI TRÊN BLOG . - TRẦN ANH TÚ .

- - - - - 


Giữa năm 1976, từ trại Long Giao, Nguyễn bị đưa ra Bắc, cùng với các thành phần "ác ôn, có nợ máu" gồm An Ninh, Tình Báo, Chiến Tranh Chính Trị, Bộ Binh, Cảnh Sát, Tuyên Úy –toàn thứ dữ dằn dưới mắt Việt Cộng. Gần ba ngàn người bị xếp như cá hộp dưới hai khoang hầm tàu chở than, nguyên là của Việt Nam Thương Tín được cải danh Sông Hương. Ai ở đâu là chết dí chỗ đấy, tiểu tiện phải bước qua những thân người nằm rũ liệt, nghe chửi thề inh ỏi khi lỡ đạp lên bụng một ông khó tính, mới đến được cái thùng gỗ nhỏ đặt ở cầu thang. Nước uống và lương khô được thòng dây xuống, y như cảnh trong một phim buôn bán nô lệ đã xem đâu rồi. Hai ngày sau cập bến Hải Phòng. Xe lửa và molotova bít bùng dàn chào sẵn để rước về các vùng biên giới, như Yên Bái, Lao Kay... Bạn bè lạc nhau từ đây. Nguyễn đi Hoàng Liên Sơn. Cửa toa đóng kín, khiến hai ông trung tá chết ngộp, xác vứt bên đường. Ngồi xe hơi thì bị trẻ con ném đá, và những bà già Bắc kỳ tốc váy chửi rủa tục tằn, với sự đồng lõa của bọn cán bộ. 
    
Hoàng Liên Sơn với rặng Fansipan trùng điệp. Những ngày vào rừng, lên núi đốn tre, chặt gỗ, giơ tay vóc từng nắm sương la đà dày đục, nếm thử thấy tê buốt –như môi hôn phút chia lìa vội vã. Những đêm lạnh cóng phải đứng ngủ cho bớt run rẩy trong chiếc chăn đơn cũ mục. Trên đường lao động, Nguyễn gặp lại bằng hữu thất tán từ các chiến trường xưa, không hẹn mà được "gom bi" đầy đủ. Nhìn nhau cười như mếu, thấm thía lời huênh hoang của một tên cán bộ: "Các anh có mà chạy đằng giời!" Thỉnh thoảng lên núi Nguyễn và các bạn đồng tổ đội gặp một nhóm Biệt Kích, bị bắt từ thời Tổng thống Ngô Đình Diệm, đang lao động tự giác, không có vệ binh canh giữ. Họ nhìn đám tân tù binh, vẻ thương hại, lắc đầu thông cảm, nhưng cũng có anh không dằn được bực tức, lớn giọng: “ĐM, các anh làm ăn, đánh đấm thế nào mà bây giờ kéo nhau ra đây cả lũ?” Cả tổ im lặng, xấu hổ, nghe xót xa bởi lời trách móc không sai. Nói thế, nhưng khi thấy bọn Nguyễn lóng cóng không buộc chặt nổi bó nứa, họ ùa đến ân cần phụ giúp, hướng dẫn tận tình, hoặc chia cho sắn luộc và bánh in khô Trung quốc.

       Sức khỏe suy sụp dần. Sau một lần khiêng gỗ té xỉu giữa đường, Nguyễn được chuyển vào đội Rau Xanh, gồm toàn bô lão –còn gọi là đội "sứt cán gãy gọng." Vì còn trẻ và tạm lành lặn, chàng bị nhường ngay chức trưởng tổ phân, ngày ngày phải hốt đủ mười chuyến phân bắc, tức phân người, "có chất lượng" giao cho tổ khác đem ủ thẳng dưới các luống khoai, hoặc chế biến thành nước tưới rau. Lúc đầu thấy hãi hùng, muốn nôn oẹ, rồi ráng nhập thiền mất đi cảm giác, ý niệm, nhìn nhưng chẳng biết đó là gì nữa. Hết phân bắc đến phân chuồng (trâu bò), cũng tởm không kém, rồi phân xanh (lá ngâm mục).                                                                                                                                                      

         Sau tám tháng, cả trại bị “biên chế” đi Sơn La, ở chung với tù hình sự, loại "đầu gấu" chuyên giết người, hiếp dâm, trộm cướp. Một vùng đèo heo hút gió, nước độc rừng thiêng, gần Điện Biên Phủ, qua hết dãy núi cao là sang đất Lào. Quanh năm chỉ thấy mây trời lơ lửng và đám người Mán, người Mèo tiếng nói líu lo, mỗi lần xuống núi mặc áo quần sặc sỡ, đàn ông thổi kèn mở đường, đàn bà gồng gánh theo sau. Cùng trại có các linh mục, cảnh sát, sĩ quan đủ binh chủng, vài nhà văn quân đội như, Nguyễn còn nhớ, Thảo Trường, Thanh Tâm Tuyền, Văn Quang và Phan Lạc Phúc. Có nhị vị cựu và đương kim Đại tá Linh mục Tuyên úy Lê Trung Thịnh và Đinh Cao Thuấn. Nguyễn nằm kế bên Trung tá Đặng Bình Minh, phi đoàn trưởng phi đoàn trực thăng của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, mùa đông được anh cho một áo jacket nhà binh rằn ri cũ. Cách Nguyễn hai người là Trung tá Vũ Hoài Đức, chỉ huy phó trường ĐH/CTCT, người hiền lành, đạo đức y như Đại tá Chỉ huy trưởng Nguyễn Quốc Quỳnh. Ở một đội khác có một cựu tùy viên của cố Tổng thống Ngô Đình Diệm, hình như là Lê Tử Hùng (?). Ai nấy thiếu ăn, xác xơ, bắt đầu thấm đòn độc của Việt Cộng: chủ trương cải tạo bao tử, nghĩa là bắt đói triền miên, để chế ngự ý chí, và cả tư cách nữa! Lao động vinh quang là trồng lúa, sắn, ngô, khoai trên những thửa đất hoang, khô cằn sỏi đá.                                                     

        Hơn hai năm sau, Trung Cộng uy hiếp biên giới, Việt Cộng lo sợ, vội vàng chuyển tất cả về Vĩnh Phú mà chúng gọi là miền trung du, đất tổ Hùng Vương. Hùng Vương đâu chả biết, chỉ thấy toàn núi rừng thâm u và bộ mặt kinh niên hắc ám của các cai tù, và những tên Ăng Ten, Trật Tự, Thi Đua ngu ngốc làm khổ đồng đội còn hơn chính kẻ thù. Trại rộng thênh thang chia làm bảy khu, gọi là K, cách nhau trung bình năm, sáu cây số, nằm tít phía sau thung lũng sông Hồng. Từ Sài Gòn ra Vĩnh Phú thăm chồng, các bà "vợ ngụy" xem như chặng đường thánh giá mới, phải vượt rừng băng sông, đi đủ các loại xe, kể cả xe trâu và xe đạp ôm. K7 gần nhất, giam riêng các biệt kích. Ở giữa, một K dành cho các thiếu niên phạm pháp, đa số về tội ăn cắp –có đứa chỉ mới tám tuổi. Nguyễn ở K1, xa nhất, tuốt sâu trong núi.                                

       Tại Vĩnh Phú, có anh bạn trường Đại Học CTCT Đà Lạt, Nguyễn Ngọc Nhung, Đại úy phòng Khảo Hạch, kiếm đâu ra được chức thủ kho dụng cụ lao động, cũng nhàn. Một hôm, Nhung kể, một tên công an vẻ phách lối đến mượn cái xẻng. Theo thủ tục phải ghi tên vào sổ. Thủ kho, người Bắc, lịch sự hỏi:

        - Xin cán bộ cho biết quý danh.

       Tên nọ không hiểu "quý danh", há mồm, ngơ ngác, suy nghĩ một hồi, rồi đột nhiên sừng sộ:

        - Anh vi phạm nội qui. Ai cho anh nói tiếng nước ngoài hử?     

       Nhung sửng sốt, á khẩu. May phước, nhờ các bạn tù xúm vào thông dịch giùm, anh mới thoát nạn, sau khi bị xỉ vả tận tình.

       Còn Nguyễn về đội Nông Nghiệp. Phải lội vào một thửa ruộng bỏ hoang từ bao đời để luân phiên kéo cày thay cho trâu bò. Nước bùn đen đặc quánh, đỉa bơi lổn ngổn, thò chân xuống thấy ghê rợn –làm chàng nhớ những đầm lầy cũng kinh khiếp dưới địa ngục mà thi hào Dante phải vượt qua với Virgile, trong La divina Commedia. Ba hôm sau, một số đội viên –có Ðại úy Cảnh sát Phạm Bá Ðiềm, bạn thân từ Sơn La– lên cơn sốt cấp tính, chỉ hai ngày là hôn mê, rồi chết. Người sống sót rụng dần lông chân. Phải mất thêm vài mạng nữa, đội mới có lệnh "giải thể."

       Thửa ruộng lại bị bỏ hoang, Nguyễn trở về đội Rau Xanh, như hồi ở Hoàng Liên Sơn, lại vào tổ phân, lần này giao cho thợ bón kiêm chuyên viên tưới là phi công Air Vietnam Trí (Nguyễn Hữu?), trung tá biệt phái. Nói chuyện mới biết Trí bay đường Hồng Kông và Tokyo, có chuyến với Bội Trân, em gái Nguyễn, mà anh tả đúng hình dáng, nên chàng tin lắm. Chim bằng gãy cánh, Trí tiếc nhớ trời xanh, giờ giải lao ngước nhìn lên cao, uất ức, thở dài.

      Tết đầu tiên tại Vĩnh Phú, trại được nghỉ lao động ba ngày, và tự do đi lại các khu vực. Nguyễn tìm đến dãy nhà giam riêng "bò lục" (tiếng lóng chỉ đại tá) để thăm Ðại tá Nguyễn Quốc Quỳnh, vị chỉ huy trưởng kính thương của trường Ðại Học Chiến Tranh Chính Trị Ðà Lạt  –nơi mà chàng được phục vụ gần ba năm trong chức vụ Trưởng khoa Nhân Văn Xã Hội và Sĩ quan Phụ khảo cho đến ngày tan hàng. Nguyễn thấy ông cũng vừa bước ra sân, nơi đang diễn nhiều trò vui do tù sáng chế để giết thời gian và nỗi nhớ nhà. Ông nhận ra chàng ngay. Chung quanh rất đông người, và dĩ nhiên ăng-ten được rải đầy. Gặp ông, chàng mừng quá, nói lớn:

         - Chào bác, bác vẫn khỏe chứ ạ?

       Ông nắm tay chàng một lúc lâu, và chậm rãi nói, giọng xúc động:    

         - Cám ơn anh, tôi vẫn khỏe. Còn anh thế nào, có bệnh hoạn gì không? Tôi biết anh ở đây lâu rồi, mà không gặp được.
       Nguyễn cố nuốt những giọt lệ làm nghẹn cổ họng, xót thương cho phận vàng phai và đá nát. Cho đất nước bất hạnh. Cho cả chính mình. Hồn bỗng rưng rưng, thầm gọi tên một thời yêu thương và thù hận tưởng đã chết theo cùng với mùa xuân tang tóc và những giấc mơ phai. Một thời vì ông chợt hiện về nguyên vẹn. Như mới hôm qua...    

        Sài Gòn, đầu tháng 5, 1975. Hai ngày sau khi đứng nhìn từ một góc đường Lê Văn Duyệt, uất hận và nước mắt lưng tròng, những chiếc xe tăng chở đầy Cộng quân vào thủ đô, nghe tên nằm vùng Trịnh Công Sơn hớn hở ca mừng chiến thắng, kêu gọi nối vòng tay lớn, và chạy tới chạy lui dò la tin tức người thân, bạn bè ai còn ai thoát, tôi tìm được địa chỉ của ông và đạp xe đến thăm cùng với hai cựu SVSQ khóa 4 bất ngờ gặp lại trên đường. Phu nhân và cô con gái, vì quen mặt hồi ở Ðà Lạt, tiếp tôi không e dè. Ðại tá Quỳnh ra phòng khách, áo sơ mi bỏ trong quần tây, chân đi săng đan. Trông ông mệt mỏi, có vẻ chán nản, dù bề ngoài vẫn giữ phong cách nho nhã, lịch sự cố hữu. Chúng tôi không nói gì nhiều. Có lẽ trước thảm họa chung ai cũng có nỗi ưu tư riêng, cùng nặng nề như nhau. Suốt ba hôm liền, tôi bị hối hận dày vò, tự trách đã vụng suy, khí khái hão, không nghe lời cô em tiếp viên đưa gia đình lên chuyến Air Vietnam cuối cùng, khiến tất cả đành phải ở lại, một số dắt díu nhau trở về Nha Trang để thấy cửa nhà, tài sản rơi vào tay bọn cách mạng 30 –hạng khố rách áo ôm trước kia đã chịu ơn ba mẹ tôi, nay trở mặt, gán lên đầu ông bà đủ thứ tội. Còn Ðại tá Quỳnh, tôi không biết ông đang tiếc gì, nghĩ gì, vì suốt buổi chỉ nghe ông lặp đi lặp lại:

        - Không thể ngờ nhanh như thế!

       Ðâu phải mình ông. Không ai ngờ, kể cả Dương Văn Minh, viên tướng thiếu tài, khờ dại, được sinh ra chỉ để phản bội và bọn "hàng thần lơ láo" tại dinh Ðộc Lập trưa ngày 30/4. Kể cả lũ vượn người khoác lác ở Bắc bộ phủ. Kể cả tên đồng minh Kissinger xảo quyệt, tác giả của cái gọi là hiệp định Paris quái gở bán đứng miền Nam, người được báo chí Mỹ bơm lên như nhà ngoại giao vĩ đại, nhưng thực chất chỉ là một anh trí thức cơ hội chủ nghĩa và đầy ảo tưởng, chưa tiêu hóa kịp những bài học bang giao quốc tế ở trường Harvard. Kể cả anh tướng hai sao và ba hoa nọ đã thề thốt ở lại để ăn mắm tôm cà pháo với đồng bào, vậy mà vào phút chót nhờ có trực thăng riêng mới vọt ra được hạm đội Mỹ. Không thể ngờ nhanh như thế!  Tôi chỉ biết gật đầu, đồng ý với ông. Cuối cùng, tôi cất tiếng hỏi:

         - Ðại tá có ý định sẽ làm gì ?                                

       Ông lưỡng lự vài giây, rồi trả lời:

       -Tôi chưa biết sẽ phải làm gì. Nhưng ở hoàn cảnh nào tôi cũng chấp nhận những gì tệ hại nhất sẽ xảy đến cho tôi.
       Như là mặt trái của bổn phận và vinh quang, tôi hiểu như thế qua những lời chậm rãi, đắn đo của ông. Những lời tôi nghe quen từ đâu rồi bỗng mang một ý nghĩa cao đẹp, phi thường trong bối cảnh bấy giờ. Những lời đã theo tôi suốt tám năm đày ải, và cùng với hình ảnh của Guillaumet, viên phi công lâm nạn lầm lũi bước lê trên cát sa mạc, không chịu ngồi chờ chết, trong “Terre des hommes” của Saint-Exupéry học lúc trẻ, đã khích lệ, vực tôi đứng dậy để tiếp tục sống còn. Tôi cảm động, và khi từ biệt, siết chặt tay ông, khẽ nói:

         - Có một điều Ðại tá nên chắc chắn là dù ngày mai ra sao tôi sẽ không bao giờ quên Ðại tá và những gì Ðại tá đã làm cho tất cả chúng tôi.

        Và cho riêng tôi. Ông là một chỉ huy trưởng nhân hậu, có đức có tài, hơn ai hết, đã làm tôi thấy yêu thích và kiêu hãnh với đời quân ngũ bất đắc dĩ. Một chỉ huy trưởng quả cảm và xứng đáng, có tinh thần trách nhiệm cao độ –quyết ở lại với thuộc cấp cho đến phút cuối, mặc dù ông có một người con rể là đại tá không quân Mỹ đầy đủ phương tiện để tẩu thoát một mình như đám tướng tá tham sinh úy tử kia đã tranh nhau đào ngũ trước khi tai họa giáng xuống. Quả vậy, chín giờ sáng 30/4, tại Tiểu đoàn 50 CTCT, đường Phan Ðình Phùng, bấy giờ là bộ chỉ huy tiền phương của trường Ðại học CTCT, ông vẫn chỉ thị các sĩ quan hiện diện và sinh viên sĩ quan các khóa tiếp tục chiến đấu và phòng thủ, để rồi, cuối cùng, phải buông súng, bất lực trước mệnh nước. Tôi không bao giờ quên được khẩu lệnh cuối cùng, ngắn ngủi, thật buồn bã của ông cho ban tham mưu, sau khi Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng:

         - Phát hết lương khô và cho anh em tan hàng!

       Hơn hai năm phục vụ trường Ðại học CTCT, không biết bởi chủ quan chăng mà tôi có cảm tưởng được ông biệt đãi. Cả Alain Bichet, giáo sư Lycée Yersin, mà tôi giới thiệu như một người bạn quý, cũng được ông dành cho cảm tình nồng hậu, và ngược lại. Ngoài ra, ông chẳng những chấp thuận mà còn khuyến khích tôi dạy vài lớp Pháp văn tại Viện Ðại học Ðà Lạt do lời mời của Phó Khoa trưởng Văn khoa, Tiến sĩ Sử Nguyễn Hồng Giáp –một bạn học cũ– mới từ Paris về, và sau này, qua trung gian tôi, nhận dạy một lớp cho trường CTCT. Rồi đến mùa văn hóa tôi được ông mời dự tiệc với các giáo sư tại tư gia và thỉnh thoảng nhờ đưa đón họ. Khi giáo sư Xã hội học Phạm Thị Tự nghỉ dạy, ông bổ nhiệm tôi thay bà, bắt đầu năm cuối của khóa 4. Những sự việc trên, tôi xem như vinh dự, nếu không nói đặc ân, nhận được từ Ðại tá Quỳnh, dù tôi biết ông đối xử công bằng, tử tế, dễ thương với tất cả mọi người, không riêng ai... Và một chuyện, rất cá nhân, tôi còn nhớ mãi.   

        Hè 1974, trường mở cuộc thi tuyển khóa 6. Tôi được cử làm trưởng trung tâm Nha Trang. Các bài thi được mang từ các trung tâm về trường để các sĩ quan Văn hóa vụ chấm. Mẹ tôi gửi gấm con bà xui gia, tức em chồng của một cô em tôi, Thể Trân, kèm theo nửa mảnh giấy nháp do anh ta viết để tôi thuộc lòng nét chữ. Tôi “dạ” cho qua chuyện, vì biết trước sẽ chẳng làm gì cả. Xưa nay tôi vốn ghét việc ăn gian với chữ nghĩa, nhất là "quay phim" trong trường thi, hoặc cuỗm bài người khác, xào nấu lại thành của mình, để in báo hay đọc trên đài phát thanh, như một số "văn sĩ" hải ngoại đang làm. Kết quả, con bà xui gia rớt, tôi đoán thế, vì không thấy tên trên bảng. Mẹ và em gái tôi lúc đó có mặt tại Ðà Lạt, ở nhà tôi, chắc cũng biết, nhưng không nói năng gì. Hôm sau, Ðại tá Quỳnh cho gọi tôi lên. Ông đưa tôi xem ba bài Pháp văn rọc phách, không đề tên, đều bị hai con số không to tướng. Và nhỏ nhẹ bảo:

         - Mẹ và em của Ðại úy sáng nay có đến gặp tôi, xin vớt một người bà con được đỗ kỳ này. Tôi xem lại điểm thì thấy anh ấy và hai người nữa bị loại vì bài Pháp văn. Ðại úy chấm rất đúng, vì họ trả lời kém thật. Tuy nhiên, Ðại úy xem có thể nâng điểm lên cho thân nhân của Ðại úy, và vì anh này, cho hai người kia nữa được đỗ không?

       Sự việc quá bất ngờ, tôi chưa biết trả lời sao, thì ông vội tiếp, vẫn nhỏ nhẹ:

       - Nhưng điều ấy cũng tùy Ðại úy thôi. Tôi không có quyền gì.                         
         Suy nghĩ giây lâu, tôi mới lên tiếng hỏi:

       - Ðại tá thấy họ cần bao nhiêu điểm nữa?

    Ông nói từ 3 đến 4. Tôi bèn sửa, và ký tên trước mặt ông. Sự tế nhị và lòng độ lượng của Ðại tá Quỳnh làm mẹ và em tôi cảm phục, hân hoan. Riêng tôi thầm cám ơn ông đã khéo léo giải quyết mọi chuyện êm đẹp, nếu không chắc phen này tôi "khó sống" với mẹ, bà xui gia, em gái. Tại bến xe đi Nha Trang, khi hôn từ giã tôi, Thể Trân nói nhỏ vào tai:
     - May phước còn có ông Ðại tá chỉ huy trưởng của anh... Anh lý tưởng vừa chứ. Mẹ giận anh lắm đó, nói cúp viện trợ cho anh... Anh liệu lời xin lỗi mẹ đi!        

     ... Thế rồi, mỗi người chia một nẻo. Ông cũng đi trình diện "cải tạo" ở một nơi nào đó. Tôi bị tống vào Long Giao để gặp lại gần toàn bộ sĩ quan Ðại Học CTCT, trong số có người bạn thân, Đại úy Đỗ Huy Hoàng, chủ bút tờ Ức Trai của trường. Những chiều lao động về rảnh rỗi, tôi mò sang đội của Hoàng, hoặc Hoàng sang tôi, để tâm sự vụn cho bớt nhớ nhà. Nhất là bớt tức. Có cái gì uẩn ức, hằn học nằm trong tiềm thức của mỗi tên tù. Đau xót và căm giận còn hơn bị tình phụ. Nhưng không biết tức ai. Lãnh đạo hèn nhát đã cao bay xa chạy. Thù hận Cộng Sản thì chẳng ai dám hé môi nói với ai. Cuối cùng, chỉ có Thượng Đế nghe đủ những lời ta thán, chửi thề vu vơ. Trong câu chuyện, chúng tôi điểm mặt từng người quen, và khi biết toàn trường vào tù, cả hai cùng thở dài, ngán ngẩm. Tôi còn gượng chọc Hoàng:

      - Ức Trai hay Ức Gái gì rồi cũng chui vô rọ hết!

      Tại Long Giao, tôi ở cùng đội, cùng tổ với Đặng Phùng Hậu, bác sĩ trưởng bệnh xá trường Đại Học CTCT, và một nhóm quân y. Cả tổ, vì tự ái, tự trọng, không ai than vãn về chuyện ăn uống, đói khát trong tù, kể cả sau này khi viết hồi ký. Hậu vui tính, kể đủ chuyện, nhờ vậy những ngày ảm đạm, bực bội qua khá nhanh. Mỗi tối, Hậu thì thầm nói chuyện với tôi về thời cuộc, và lần nào anh cũng lẩm bẩm kết thúc bằng câu:

      - Địt cụ, đau như hoạn, tức như bò đá!

     Bên dãy cấp tá có Lê Ân, thiếu tá văn hóa vụ trưởng của trường. Những lần thấy nhau qua hàng rào kẽm gai, ông lộ vẻ mừng rỡ, rồi lắc đầu nói, giọng Quảng lai Huế rất ”trademark” của ông:
       - Cháng gướm (chán gớm)!

     Trong câu chuyện, anh em thường hỏi về Ðại tá Chỉ huy trưởng. Không ai biết chính xác ông ở đâu. Có tin ông đã chết. Hoặc đang ở ngoại quốc. Hoặc trốn trong một khu rừng. Nhiều đêm trằn trọc, tôi khổ tâm vì dĩ vãng, cứ ám ảnh mãi, như cuốn phim quay lại, tự động, chậm chạp, lê thê. Nhớ không sót từng khuôn mặt, từng buổi giảng dạy, từng dịp lễ. Nhớ từng đêm Giáng sinh giá buốt và tiếng chuông nhà thờ ngân nga, từng buổi dạ vũ tưng bừng, mệt nhoài, từng con phố chìm trong sương mờ che khuất đường về...                 

      Bây giờ Đại tá Quỳnh đứng đó, bên Nguyễn, giữa một ngày xuân héo hon. Người gầy nhom, gương mặt hốc hác, má trũng sâu. Nhìn lại hình hài mình, chàng thấy đâu hơn gì. Chỉ một thoáng mơ, bỗng hiện về trong đáy hồn rời rã cả khung trời yêu thương Ðà Lạt và kỷ niệm rực rỡ của tháng ngày cũ có hạnh phúc còn thơm hương mimosa, có tình yêu chưa biết nói lời phản trắc, có một Ðại tá Quỳnh uy nghi trong quân phục đại lễ gắn cấp hiệu cho sinh viên các khóa, nay còn đâu! Mới có bốn năm vật đổi sao dời mà cả hai đã trở thành thảm hại đến thế ư? Ông mặc bộ treillis bạc màu, chân đi dép râu, sau lưng viết chữ Quỳnh thật to bằng mực tím. Thấy không ai để ý Nguyễn bèn hỏi rất khẽ:

         - Ðại tá nghĩ sẽ có ngày về không?

       Ông lấy tay che một bên tai, có vẻ chú ý lắm mới nghe lọt hết. Và trả lời nhanh, chắc ngại bọn ăng-ten cứ lượn qua lượn lại trước mặt:

       -Tôi nghĩ là rất khó lòng, mặc dù vẫn cố hy vọng. Ðiều quan trọng là anh gắng giữ gìn sức khỏe tốt để có sức chịu đựng. Gặp anh em khác cho tôi gửi lời thăm!

       Một thằng sà tới. Nguyễn vội nói lớn:

         - Bác được thư gia đình thường chứ?

       Ðại tá Quỳnh chưa kịp đáp thì hắn đã gay gắt bảo Nguyễn, giọng trọ trẹ:       

         -Tôi lưu ý anh, không được quan hệ với các anh đại tá.     

       Chàng phản pháo liền:

         - Nhưng anh là ai? Hôm nay ngày Tết được miễn!

       Thằng nọ mặt hầm hầm, lớn tiếng:

         -Tôi ở trong ban Trật Tự. Ðề nghị (tiếng Việt Cộng có nghĩa "yêu cầu") anh chấm dứt quan hệ linh tinh.
       Chàng quay sang Ðại tá Quỳnh :

         -Thôi xin từ giã bác, chúc bác mạnh khỏe, bình an trong năm mới.

       Rồi nhìn thẳng mặt thằng Trật Tự, giận dữ bỏ đi. Nguyễn gặp Ðại tá Quỳnh được một tháng thì hai đội bò lục –đội trưởng là Lê Ðình Luân và Dương Hiếu Nghĩa– chuyển xuống K5, cách đó độ sáu cây số, cùng với các linh mục tuyên úy mà bọn Công an đặc biệt căm thù.                                     

    Rồi một hôm, mẹ tôi lặn lội đến thăm, có Bội Trân hộ tống. Lần đầu được phép, sau năm năm chờ đợi. Mất ba ngày đường trên hai chuyến xe lửa từ Nha Trang ra Hà Nội, từ Hà Nội lên Ấm Thượng. Qua sông Hồng bằng phà máy, tới K1 bằng xe trâu. Tại nhà tiếp tân, lúc đó khá đông người, ba mẹ con ôm nhau khóc, rồi nói cười, mừng mừng tủi tủi, trước những cặp mắt cú vọ của lũ vệ binh và quản giáo. Mẹ thút thít, xoa nắn hai cánh tay và ngực tôi, như lúc nhỏ tôi từ Sài Gòn về quê Nha Trang nghỉ hè, chê con gầy quá, tội con quá! Mẹ bạc gần nửa mái đầu, da sạm nắng, tay nổi gân xanh. Suốt năm, Bội Trân nói, mẹ đi thăm nuôi "mệt nghỉ" rồi lo tìm đường cho con vượt biên, làm sao mà không già yếu cho được. Ba ông con trai lớn và một chàng rể tương lai đi cải tạo bốn nơi khác nhau, cô con gái út bị bắt ngay trên ghe nhỏ, giam tại A30. Chưa đứa nào thoát được, mẹ tiếp lời, trừ Thể Trân ra riêng, vì cả nhà bị chúng nó theo dõi sát nút.                                       

       Bội Trân đẹp như trước kia, nổi bật giữa phòng tiếp, dù thôi trang điểm. Nhưng tóc cài hờ hững, mắt buồn vời vợi, mất hết vẻ hồn nhiên, tinh nghịch cố hữu, khiến tôi ngậm ngùi tưởng đến những mỹ nhân tự thuở xưa hương sắc không phai giữa gió đời vùi dập, kiêu sa trước nghịch cảnh, như các nhân vật nữ trong những vở kịch cổ Hy Lạp. Em kể, và mẹ lắng nghe, thỉnh thoảng gật gật đầu, phụ họa:

      - Nhà mình tịch thu được chúng nó trả một nửa, nửa kia làm trụ sở thanh niên phường. Ba làm rẫy, mẹ lén nấu rượu chuối cho ba uống thay Martel. Em phụ bán nước mía với em Huyền Trân. Chị Thể Trân đến được Mã Lai với chồng con, hiện ở Pháp. Chị vẫn nhắc chuyện anh cho cậu em chồng hai quả trứng vịt lộn trong kỳ thi ở trường CTCT và ông Ðại tá chỉ huy trưởng hiền từ của anh. Chị nói anh ngang tàng, đôi lúc chị tức anh lắm, nhưng vẫn thương anh, hơn bất cứ ai, bởi anh là mẫu người của đàn ông, có chết cũng không than van, cầu khẩn, lúc nào cũng bất cần, kiêu hãnh, giống như con chó sói bị thương trong bài "La mort du loup" của Vigny mình học năm nào đó... Anh nhớ không, hồi nhỏ, một lần anh đánh lộn với mấy thằng lối xóm chuyên chận đường chọc ghẹo tụi em, bị chảy máu mũi, mắt sưng vù, mà anh vẫn cắn răng chịu đau, không khóc, lại còn bị ba mắng cho nữa...

       Tôi lắc đầu, cười buồn. Ôi, xa rồi kỷ niệm, nhắc làm chi hỡi em? Và đổi đề tài:

         - Em có tin gì của Kha?  

       Kha là hôn phu của Bội Trân, phi công A37, dưới tôi hai lớp ở Jean-Jacques Rousseau. Sắp cưới thì mất nước. Vì Bội Trân ở lại, Kha cũng không đi.

       Nghe tôi hỏi, Bội Trân chớp mắt, buồn rầu nhìn ra sân. Bầu trời thấp, đục, giăng mây xám, như sắp đổ mưa. Gió rừng tuôn qua vách nứa ngập gian nhà trống trải, không cửa, lạnh từng cơn. Em thì thầm:

       - Mẹ và em đã ghé thăm Kha ở Hà Nam Ninh trên đường lên anh đây. Cũng tàn úa, như anh, như mọi người, sức khỏe giảm sút nhiều... Em sẽ chờ anh ấy, bao lâu cũng được.

       Tôi quay sang mẹ, bùi ngùi nói:

       - Tất cả đều do lỗi của con. Phải chi ngày đó con biết nghe lời em đưa gia đình...  

       Mẹ ngắt lời:

      - Cả nước đều lầm, đâu phải riêng con. Chuyện cũ, thôi đừng nghĩ đến nữa.   

       Bội Trân tiếp:

      - Nhưng có thế này em mới được về "phục viên" ở hẳn với ba mẹ chứ!  Em vẫn thương anh và hãnh diện vì anh.
       Mẹ và em nói đủ thứ chuyện, nhưng không đề cập đến một tin tôi chờ mà ngại không dám hỏi. Dường như hiểu ý, lúc mẹ quay qua tiếp một bà đồng hành ngồi cùng bàn, Bội Trân nắm bàn tay tôi, siết chặt, và khẽ nói:

      - Lệ Ngà đã lấy chồng. Hai năm sau khi anh ra đi. Em đâu ngờ!    

       Tự dưng tôi buột miệng, không chút mỉa mai:

      - Hai năm là còn khá thủy chung đấy chứ em!  

      Tôi tưởng sẽ phải đứng tim, ngất xỉu. Nhưng lạ quá, chỉ thấy buốt nhói một chút như kim châm. Có lẽ vì đã chuẩn bị đón nhận sự thật quá lâu, từ năm năm rồi. Một thiên thu. Chợt nhớ một anh bạn Thiết giáp vừa vào Long Giao mấy tháng đã nhận được thư của vợ xin anh cho phép "bước thêm một bước nữa" và ký vào tờ đơn ly dị và giấy nhường tài sản kèm theo, và cả đời tôi không quên được giọng cười khinh bạc của anh sau khi viết trả lời: "Nhất trí. Cho cô hết. Nhưng khuyên cô không nên bước, mà nên chạy cho nó nhanh." Tôi không được như anh ta. Bởi vô vàn kỷ niệm ngát hương ngày mới yêu ùa về, thay nhau vỡ như bong bóng. Lệ Ngà. Bạn học thân thiết của Bội Trân. Tà áo thiên thanh và dòng tóc buông lơi trong nắng sớm phi trường Liên Khương, những lần em bay lên gặp anh. Lệ Ngà. Những chiều đi dưới mưa lất phất qua những đồi thông, em hát nho nhỏ bài “Le jour où la pluie viendra... Ngày mà mưa đến, sẽ có bao nhiêu là giọt kim cương cho tình ta...” Những ly rượu Bordeaux sóng sánh ngọt lịm môi em trong quán L’eau Vive và bản "Appassionata"  trên phím dương cầm thánh thót như từng giọt lệ rơi, thiết tha như lời tuyệt vọng gọi người tình về. Những vòng tay cuống quýt tìm nhau trong hoàng hôn tím trên đồi Cù. Những lời thề nguyền yêu đương cho đến lúc đầu bạc răng long. Lệ Ngà. Hạnh phúc dối gian và ảo vọng phù du. Tôi nhắm mắt giây lâu, nghe vị đắng và cơn giận thấm dần xương tủy. Và thở dài nhè nhẹ, nhìn Bội Trân không nói. Ðâu phải tình cờ em nhắc đến con chó sói bị thương, cùng đường, của Vigny.           

       Em tiếp, giọng trầm buồn:

       - Không hiểu sao Ngà biết em sắp đi thăm anh. Ðến gặp em, lần đầu tiên sau mấy năm biệt tích. Em không nỡ đuổi. Khóc suốt buổi, nhưng không nói một lời gì về anh. Khi chia tay, chị ta nhờ em trao anh những phong chocolat Meunier mà chị ta nói ngày xưa anh rất thích, và cho em một số tiền làm lộ phí, nhưng dĩ nhiên em không nhận gì hết... Em biết tính anh quá mà!

       Tôi nói cám ơn em. Rồi cả hai im lặng, đuổi theo ý nghĩ riêng...   

       Hai giờ trôi qua mau. Tên cán bộ vén tay áo xem đồng hồ, bảo tất cả chuẩn bị ra về, vác quà vào trại. Khi ôm hôn tôi từ biệt, lợi dụng tiếng ồn ào, Bội Trân nói một hơi, thật nhanh, qua màn lệ, bằng tiếng Pháp:

      - Ba dặn anh đừng tin bọn Cộng sản, đừng khai thật, khai sao lặp lại y như vậy, đừng tin các phong trào phục quốc, tất cả đều là cạm bẫy của Việt Cộng. Em nghe đài VOA và BBC nói các nghị sĩ, dân biểu Mỹ, và cả thế giới đang quan tâm đến số phận của các anh. Ðừng tuyệt vọng nghe anh. Nhớ đọc kinh, cầu nguyện nhiều xin Chúa và Ðức Mẹ che chở. Cả nhà chờ anh đó. Em thương anh. Em thương anh.
                                        
        Mẹ và em về hơn hai tháng, Nguyễn được chỉ định vào đội Xây Dựng, có nhiệm vụ cất nhà ở cho tù, heo, và cán bộ, và bắc cầu qua suối cho dân. Lúc đầu chàng phụ tá cho Lưu Ninh, Thiếu tá, trong tổ vữa (trộn hồ), và sau khi Ninh qua “khâu” lợp chàng được thăng chức tổ trưởng, và tổ phó là Ðào Văn Bảnh, Trung tá Bộ Tổng Tham Mưu. Bảnh tính tình điềm đạm, cởi mở, sau trở thành một trong những bạn tù thân thiết nhất. Không có tổ viên. Suốt ngày hai tên hì hục trộn hàng đống vữa lớn, nhỏ, để sẵn, chờ một toán đem xe cải tiến, do ông nhà báo Việt Tấn Xã Đinh Phụng Tiến chỉ huy, đến xúc giao cho các thợ xây. Trong đội, nằm cạnh chàng, có Ðại đức Nguyễn Long, quê Quảng Ngãi, lo nấu nước, làm tạp dịch. Ông hiền lành, thật thà, ưa giúp đỡ mọi người. Nhiều đêm, vài anh nổi hứng, oang oang kể chuyện đàn bà con gái, chơi bời trước kia. Ông cũng bị nghe, và lần nào cũng lầm rầm bên tai Nguyễn:

         - Mô Phật! Chơi chi mà chơi dữ rứa hè!   

       Bữa nọ, một bà già khu gia binh cho đội một con chó con vừa chết. Một anh gốc Hố Nai xung phong trổ tài nấu rựa mận với muối, rau muống, và củ riềng –mọc đầy bên vệ đường. Mỗi người được chia hai miếng bằng ngón chân cái. Ai cũng "hồ hởi" ăn, trừ Ðại đức Long. Ông đi tìm Nguyễn, cho phần của ông, mặc dù quanh năm ai cũng thiếu chất thịt và ông chưa được thăm nuôi. Ông nói:

         -Tôi còn tu. Anh ăn giùm cho!   

       Một hôm, đội được điều động làm công tác "đột xuất" (bất ngờ) là ra "nghĩa địa", tức một bãi đất trống sát chân núi, làm cỏ và cắm mộ bia cho các anh em đã nằm xuống. Nguyễn đếm gần hai trăm mộ  –kỳ thực chỉ là những nấm đất vùi sơ với mảnh gỗ nhỏ ghi vội tên người chết. Trong số có vài ông tỉnh trưởng, trung đoàn trưởng. Có Trung tá Nguyễn Văn Năm, thuộc trường Ðại học CTCT, người hiền như Bụt, nổi tiếng về khoa bói toán, bấm độn, và một người quen biết từ trại Sơn La, Trung tá Ðặng Bình Minh –cả hai trúng nắng cùng một lúc ngoài hiện trường lao động, được chở về trại cùng trong một chiếc xe trâu, hôn mê và qua đời cùng một giờ. Anh em kể, vợ phi công Minh, một dược sĩ trẻ đẹp, từ Hà Nội trở lại thăm khi anh vừa mất, được dẫn ra nghĩa địa, khóc như mưa, rồi cắt tóc để lại trên mộ cùng với một bài thơ. Nguyễn vừa giẫy cỏ vừa thầm khấn các anh phù hộ cho tất cả tai qua nạn khỏi và mau về sum họp với gia đình. Và thắc mắc không hiểu sao bữa nay bọn cai tù lại tử tế như vậy. Thì ra, về sau mới biết, có một phái đoàn cao cấp đến thăm trại.

        Cuối năm 1980, cả đội của Nguyễn được điều động đến K5 xây hội trường và khu gia binh cho công an. Tại đây, Nguyễn rất mừng được thấy lại Ðại tá Nguyễn Quốc Quỳnh, mỗi buổi sáng tập họp. Kỳ này, trông ông đỡ tiều tụy. Tết 1981, mẹ chàng và Bội Trân ra Vĩnh Phú lần thứ hai, với Huyền Trân, cô em út xinh đẹp vừa tròn mười tám. Chàng soạn một ít bánh mì khô, đường và mì gói, mấy viên thuốc cảm, bỏ vào một bọc ni-lông, chờ buổi chiều các đội đi tắm suối chung lẻn đến phía các bò lục, gặp Ðại tá Quỳnh trao cho ông, nói:   
                - Tôi mới được thăm, xin biếu Ðại tá.

       Hai tháng sau, đến lượt ông được thăm, và một buổi sáng Nguyễn đang đánh vữa thì đội của ông đi ngang. Ông gật đầu ra dấu cho chàng đến sát hàng rào kẽm gai và dúi vào tay một gói lương thực khô đủ loại. Thằng vệ binh thấy được, chạy tới khám. Không có thư từ, mật hiệu, nó trả lại, mồm càu nhàu:

       - Quà với cáp linh tinh!

       Lúc này, tổ vữa làm việc gần bếp và giếng nước cơ quan. Một hôm, một trung sĩ công an còn trẻ, lạ hoắc, lén vệ binh, đến gần, run run hỏi nhỏ:  

      - Các anh có B6, cho tôi xin một ít. Nhà tôi mới sinh bị phù (thủng) nặng.

       Việc xảy ra đột ngột, Nguyễn và Bảnh đưa mắt nhìn nhau, không đáp, sợ bị gài bẫy. Anh ta vội tiếp:

      - Nói thật đấy mà! Không tin, các anh cứ vào đây xem.

       Suy nghĩ một hồi, Nguyễn đánh liều đi theo anh ta, còn Bảnh ở lại canh chừng đống vữa và tên vệ binh. Vào nhà, thấy chị vợ da mét xanh, mặt mày, tay chân sưng húp, nằm bên đứa con đỏ hỏn, bé như con chuột. Chị ta nói thuốc bệnh xá cấp thiếu, và không có thức ăn bổ dưỡng.

       Hai đứa phân vân mãi. Ðối tượng giúp đỡ phải là bạn tù chứ, của đâu mà lo cho Công an! Nhưng hầu hết anh em đều đã được thăm nuôi, hoặc nếu chưa, đã được Bảnh, Nguyễn và bạn bè chia sẻ phần nào rồi. Cuối cùng, động lòng trắc ẩn, cả hai góp lại được chừng bốn mươi viên B6 để dành từ các lần tiếp tế, đã quá hạn, nhưng không còn gì hơn, và một chén sữa bột cho đứa bé, đem giấu dưới một gốc cây, làm hiệu cho anh ta đến lấy. Hai tuần sau, một buổi trưa, chị vợ đang nấu bếp cơ quan thấy hai chàng thợ vữa đến, vội tiến ra, nhìn trước nhìn sau, bảo:

      - Cảm ơn hai anh, hôm nay em đã đỡ nhiều. Có xuất cơm trắng và miếng thịt trâu bồi dưỡng em mang cho hai anh ở gốc cây kia. Nhớ xem chừng cán bộ bảo vệ, kẻo em bị kiểm điểm...

    Rồi từ đội Xây Dựng, Nguyễn được Linh mục Trần Thanh Cao, giỏi nhạc, đẹp trai, vui tính, có quen biết ngoài đời, bốc về đội văn nghệ mới thành lập do ông làm đội trưởng, để tỵ nạn lao động vài tháng, mặc dù chàng dốt đặc về ca nhạc kịch. Nhân tài, cũng cỡ chàng, biệt phái từ các đội. Có ba anh giả ba sơn nữ Phà Ca mang gùi, đeo vòng, lắc lư múa theo bài Tiếng chày trên sóc Bom Bo, trông xa, và vì vắng đàn bà lâu ngày, thấy cũng hấp dẫn không thua Thanh Nga. Có tổ cải lương với đầy đủ vai hề, đào thương, kép độc. Ðội được lệnh trình diễn giúp vui một phái đoàn thanh tra trung ương. Cha Cao cho Nguyễn vào ban hợp xướng, bè alto ngang phè phè. Ông khuyến khích các ca viên:              

         - Ăn sắn và hút thuốc lào mà hát như vậy là được rồi!

       Một hôm, trại phó đến thăm. Ban hát đang tập một bài có nhắc tên Hồ Chí Minh và hang Pắc Pó, hay ao sen, ao cá gì đó, do cha Cao đặt hòa âm thành bốn bè, mỗi bè tập riêng. Hắn chăm chú nghe, vui vẻ, rồi bỗng nhăn mặt, gọi cha Cao lại, giận dữ quát:

        - Anh bôi bác Cách mạng đấy phỏng? Tên Bác kính yêu như thế mà... mà anh dám đổi nà Hô, Hố, Hộ, Hổ như thế thì... thì nà anh nếu náo thật!

       Cha phân trần, nhưng hắn gạt đi:

         - Bỏ, bỏ tất! Bè với không bè!

       Lần khác, hắn đến xem tập kịch. Hắn lại nhăn mặt, lại gọi cha Cao, chỉ tay về phía  một ông trung tá ký giả trọng tuổi, đóng vai một cán bộ huyện. Nguyễn đứng gần cha Cao, nghe hắn bảo:

        - Thay anh kia cho tôi! Cán bộ cách mạng chúng tôi không bao giờ đi chân thọt! Anh có ý đồ phải không?

        Cha Cao ngẩn người ra, cứng họng. Bấy giờ, Nguyễn mới nhìn kỹ ông diễn viên xui xẻo. Quả thật, chân bước của ông hơi khập khiễng.               
                                                                                                                                                              &n bsp; 
        Văn nghệ xong, đội giải tán trong sự tiếc nuối của các nghệ sĩ bất đắc dĩ. Cha Cao đi trồng mía. Nguyễn bị hoàn trả về đội xây, đánh vữa trở lại với Ðào văn Bảnh.  

        Bất ngờ, lại bị “biên chế” nữa. Các sĩ quan cấp tá và tuyên úy một sáng sớm phải lên đường di chuyển về một nơi nào không rõ. Nguyễn ngồi trong hàng nhìn theo bóng Ðại tá Quỳnh và bạn bè, có cả Ðại đức Long và cha Cao, lầm lũi bước lên xe, mang theo những túi tư trang gọn nhẹ, như chính cuộc đời trống vắng, buồn tênh của đám tù nhân. Lần đó, chàng nghĩ khó còn gặp lại nhau, và tự dưng lòng nao nao như mất người thân thuộc. 

       Năm sau, đội Xây Dựng được trở về K1. Mỗi tối, khi cửa buồng giam đóng lại, từng nhóm tụm năm tụm ba nhỏ to nói chuyện, đánh cờ, uống nước trà, hoặc bàn luận thời cuộc từ những tin tức hiếm hoi, thường phóng đại, do các bà thăm nuôi cung cấp. Thời gian này, Nguyễn được nhóm thân hữu đặt biệt danh  "bình luận gia tin tức quốc tế". Một cách thành thật, tự tin, chàng phân tích theo chiều hướng có lợi, hợp với ước vọng của mọi người, trong khi thực tế có lẽ khác xa. Bọn cán bộ hình như về sau cũng muốn thả lỏng, miễn đừng ai phá phách, trốn trại, trốn lao động, hoặc công khai "phản động".  Những giàn ăng-ten bị bứng hết, và anh em có thể phát biểu vung vít, thoải mái, trong nội bộ từng nhóm. Bảy năm rồi còn gì! Ðau khổ đã thành thói quen. Nhớ vợ thương con cũng đã chìm sâu vào tận cuối hồn. Không còn những anh đêm khuya khóc rưng rức trong chăn của thời gian đầu xa gia đình êm ấm. Trái tim hóa thành đá hết rồi. Giờ đây, phản kháng, dưới hình thức nào đó, bùng lên từ sự chịu đựng câm nín dồn ép qua nhiều năm. Có người khai bệnh nghỉ lao động dài dài. Hoặc giả khùng chửi xéo chế độ. Hoặc còn đập cả vệ binh hỗn láo để rồi, dĩ nhiên, bị biệt giam và hành hạ dã man. Nguyễn bắt đầu để râu, làm tên quản giáo Vinh –nói ngọng, chữ tr thành t, l thành n– rất ngứa mắt, bắt kiểm điểm, nên thấy hắn từ xa chàng lánh mặt. 

     Trong buồng giam có một anh chuyên chiếu phim, tức kể chuyện, thật hay và duyên dáng. Tối đến, tù nhân bu quanh, thay nhau rót trà, mời kẹo, đấm lưng cho anh ta, để được nghe kể đủ thứ chuyện, từ Cô gái Ðồ Long đến La valse dans l’ombre qua Thần điêu đại hiệp. Một anh nữa, Trung úy Phạm Hữu Lý, xuất thân trường Ðại học CTCT, hát nhạc vàng rất mùi. Suốt một đêm giao thừa, Lý ca một hơi hơn một chục bản tình lâm ly, như Chiều mưa biên giới anh đi về đâu hoặc Xuân này nếu con không về, chắc mẹ buồn lắm, làm ai nấy mắt cay sè, muốn khóc. Bọn vệ binh gác cửa, đa số là thanh niên mới lớn, nghệt cổ ra nghe, thậm chí còn bảo  "anh lào đó hát nại" vài câu...                                                                                                                                         

        Ðại tá Nguyễn Quốc Quỳnh và hầu hết các nhân vật trong "truyện" này kẻ trước người sau đã đến bến bờ tự do. Từ Rose City, thỉnh thoảng tôi gọi ông hay viết thư thăm hỏi. Còn Trung tá Ðào Văn Bảnh, phi công Nguyễn Hữu Trí không rõ trôi dạt phương nào, cũng như cha Trần Thanh Cao và thầy Nguyễn Long. Thiếu tá Lê Ân, Đại uý Nguyễn Ngọc Nhung, sau khi được thả về, đã mất vì một cơn bạo bệnh.                               

       Mẹ tôi, đã ngoài tám mươi, vẫn còn nơi quê nhà, ở với Huyền Trân và chồng con. Ba tôi mất, không được gặp mặt. Những người em "cải tạo" lần lượt định cư tại các nước, trừ Kha chết trong tù. Bội Trân ở vậy, không yêu ai nữa, đúng theo lời thề hứa, trước khi trở thành một nữ tu dòng kín, giữa tuổi thanh xuân, làm nhiều con tim tan nát. Lệ Ngà yên ngủ giấc ngàn thu, sau một cơn bạo bệnh, trả hết cho dương gian những si mê và tình yêu mật đắng. Còn tôi, sau bao năm vật vã để vá lại mảnh đời rách mướp, đã bắt tay được với hạnh phúc –nhỏ nhoi so với nỗi đau ngút ngàn phải trải qua. Nhưng hồn vẫn chơi vơi theo kỷ niệm chỉ chực òa vỡ mỗi lần ở đầu dây tiếng mẹ và em từ bên trời cũ, hoặc Ðại tá Quỳnh, vang lên.     

        Nữ tu Marie-Amélie Bội Trân nhắc Nguyễn nên tha thứ, tha thứ, và nói tất cả chỉ là thử thách Chúa gửi đến. Nhưng đối với bạo quyền Cộng sản, chàng nói, làm sao tha thứ cho được? Ðó là một bọn người gian manh, độc tài, chuyên chế, đã dìm cả đất nước vào cảnh lầm than, đói khổ, qua ba mươi năm, và bây giờ lại còn đốn mạt dâng đất, dâng biển cho quan thầy Trung Cộng, mối họa muôn đời của dân tộc. Mối hận ngút trời này, Nguyễn sẽ không bao giờ quên, mặc ai phỉnh gạt, kêu gào hòa giải hòa hợp. Vì chàng vẫn tin –theo như lời viên đại tướng tổng tài La Mã nói với Ben Hur lúc còn là một tù nhân chèo thuyền (galérien) trong phim cùng tên, Ben Hur– rằng hận thù cho sức mạnh, làm ta tỉnh táo, đề phòng.


Portland, 2005, cho Tháng Tư Đen                                                                           
viết một năm trước ngày mẹ mất (tại Nha Trang, 7/2006)