Search This Blog

Thursday, October 27, 2011

Chuyện Đời Quân Ngũ Của Một Người Lính Công Binh VNCH, 30-4:
Từ Nghĩa Trang Biên Hoa, Trường Sa Tới Dinh Độc Lập
Lê Đồng

nguồn : www.motgoctroi.com/.../stlc_qnmdnguoi.htm -
Sau những cuộc mật đàm, đi đêm giữa các cường quốc Mỹ - Trung Cộng, Nga Sô đưa tới việc ký kết hiệp định Paris ngày 27/1/1973. Đây cũng là lúc khóa 02/72 làm lễ ra trường Công Binh Quân Lực V.N.C.H. Ngôi trường này nằm trên một ngọn đồi thơ mộng theo đồ án kiến trúc của Pháp để lại mà phía sau trường đồi dốc thoai thoải hướng xuống dọc bờ sông có chiếc cầu bắc ngang dòng sông Phú Cường dẫn đường vào thị xã của tỉnh Bình Dương.
Sau lễ mãn khóa, cá nhân tôi được chuyển về liên đoàn 5 Công Binh kiến tạo ở thành Ông Năm Hóc Môn và điều động về Đại đội 541 Công Binh kiến tạo KBC 6322, trú đóng ở cầu Đồng Nai cạnh xa lộ Biên Hòa. Trách nhiệm chính của đơn vị là xây cất NGHĨA DŨNG ĐÀI ở Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa.
Chuyện Ngĩa Trang Quân Đội và Nghĩa Dũng Đài
Vào thời điểm đó công trường Nghĩa Dũng Đài đang ở vào giai đoạn khởi công, cơ giới đào đất, đóng cừ móng bê tông trụ đài chính và 4 trụ đỡ của vành khăn tang. Ngoài ra đại đội còn có sà lan hàng ngày khai thác cát dưới lòng sông Đồng Nai để cung cấp cát cho các đơn vị quân lực V.N.C.H có nhu cầu sử dụng.
Từ 1973-1974, hàng năm cứ đúng ngày 1 tháng 11 năm 1973 & 1974 Việt Nam Cộng Hòa đều có tổ chức lễ tưởng niệm "chiến sĩ trận vong." Buổi lễ được cử hành tại nghĩa trang quân đội Biên Hòa với sự tham dự của Tổng Thống Thiệu, thủ tướng Khiêm, Đại tướng Viên, chủ tịch quốc hội Cụ Huyền, Cụ Cố Lắm, Cố Đại Sứ Mỹ ông Bunker -sau đó là ông Martin- và ngoại giao đoàn tham dự.
Lần cuối cùng ngày 1/11/1974 sau khi làm lễ ở "Đền Tử Sĩ" đích thân Tổng Thống Thiệu cầm đuốc đốt dầu thô bừng cháy được lấy lên từ giàn khoan ngoài khơi vùng biển phía Nam. Các giếng dầu lúc đó được mang tên rất đẹp như, Hoa Hồng 9, Bạch Hổ, Mía, Dừa..... do các tổ hợp ngoại quốc đấu thầu, rồi phái đoàn lên xe đi về hướng Nghĩa- Dũng - Đài, và dừng lại đi bộ đến thắp nhang cầu nguyện trước mộ "chiến sĩ vô danh" và cắm nhang các phần mộ kế cận, cuối cùng nghe thuyết trình về công tác xây dựng, hoàn tất Nghĩa- Dũng- Đài trong lúc phu nhân của các vị lãnh đạo cũng đi từng ngôi mộ cắm nhang cho khu đối diện.
Đời binh nghiệp của tôi gắn liền với Đại Đội 541 Công Binh kiến tạo cho tới 12g trưa ngày 30/4/1975 thì tan hàng theo vận nước nổi trôi của miền Nam. Chưa đầy 48 giờ sau ngày tiến chiếm Saigon, quân đội Cộng Sản đã cho tàn phá Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hoà.
Tôi nhớ ngày 3/5/1975, từ sáng sớm sau khi không qua nổi làn sóng người "phe ta" tràn vào trình diện ở cổng trường Gia Long khép kín, tôi buồn chán lang thang đạp xe đạp lên thăm viếng Nghĩa trang quân đội Biên Hòa. Dọc đường xa lộ vắng vẻ thỉnh thoảng mới có vài chiếc molotova ngược xuôi và chạy chậm ngừng lại quan sát, nhanh chóng đưa những can xăng vào các nhà điểm bán xăng bên đường.
Qua khỏi con dốc của làng Đại Học Thủ Đức, trụ đài cao 43m đứng sừng sững giữa bầu trời và vành khăn tang vòng kính 43m, cao 1m2 bao quanh nằm chảy dài ngạo nghễ cùng với cổng Tam Quan & Đầu Tử Sĩ trong ánh nắng ban mai của thủơ ban đầu mất nước.
Đến nghĩa trang quân đội, tôi thấy tượng "Thương Tiếc" không còn uy nghi lẫm liệt ngồi trên bệ đá nữa mà đã bị cộng sản giật sập nằm bên vệ đường. Đầu tượng úp mặt quay về hướng Sài Gòn, chân ngóng về Biên Hòa và một cánh tay của tượng bị gãy lìa nằm cạnh đó. Hình ảnh ấy làm tôi thấy lòng mình chùng xuống. Chỉ còn biết hướng tầm mắt vào nghĩa trang nguyện cầu rồi lên xe đạp đi tới hậu cứ của đơn vị. Nơi đây đã hoàn toàn bị san bằng trên đường tiến quân của cộng sản vào Sài Gòn.
Sau khi từ trại cải tạo trở về, tôi đã âm thầm nhiều lần lên thăm viếng nghĩa trang Quân Đội. Sau khi đi định cư ở My trong một dịp về Quê Hương, tôi cũng đã trở lại vùng đất nơi an nghỉ của những người con yêu Tổ Quốc và tận mắt chứng kiến nhiều cảnh đổi thay. Nơi bệ đá của tượng Thương Tiếc ngày xưa nay đã có một hộ dân cư dựng lên nhà ở và là điểm vá ép vỏ xe các loại. Ngay ngã ba đầu đường dẫn vào nghĩa trang có bàn bán giải khát và nhang đèn.
Qua khỏi lối rẽ chạy vòng quanh Đền Tử Sĩ, Cộng Sản đã xây dựng nhà máy lọc nước Thuận An án ngữ ngay bên phải cổng Tam Quan của đường lộ chính dẫn tới Nghĩa Dũng Đài, do đó thân nhân tử sĩ vào viếng mộ bắt buộc chỉ còn hướng bên trái đi lại mà thôi. Suốt quãng lộ chính này, mặt đường toàn là đất đỏ của nhà máy gạch phơi dùng để sản xuất gạch, những con đường nhựa phụ chạy theo hình vòng cung của các lô đã bị hư hại 90%. Tất cả ống cống thoát nước giữa các giao điểm đường lộ hoàn toàn chẳng còn nữa, khiến nhiều đoạn sụp lở thành hố sâu. Thương tâm nhất là những phần mộ an táng xa phía sau gần khu Nông Mục Quân Đội cũ là vùng đất thấp chưa được lắp đặt mộ tiền chế cỏ lau sậy mọc cao và nước mưa năm tháng xoáy mòn chỉ còn trơ trọi mộ bia ngả nghiêng.
Tóm lại khung cảnh đổ nát và hoang tàn của nghĩa trang quân đội Biên Hòa mà không bút mực nào diễn tả hết được ý nghĩa.
Hôm nay, thêm một lần Tháng Tư, tôi lại thấy lòng mình chùng xuống như ngày nào, khi hồi tưởng đời quân ngũ từ 30 năm trước.
Công binh VNCH ra Trường Sa
Tháng 1/1974, Trung Cộng chiếm đóng công khai đảo Hoàng Sa. Để ngăn chận sự lấn chiếm những đảo còn lại của biển Đông, các đơn vị của Liên Đoàn 5 Công Binh kiến tạo được lệnh đưa các toán công binh ra quần đảo Trường Sa để xây cất các hạng mục công trình như dựng cột cờ, bia chủ quyền, nhà tiền chế, nhà để máy phát điện, nhà chưá bồn nước dư trữ....
Vào thời gian đó quần đảo Trường Sa gồm những đảo san hô như Thái Bình, Tại Tứ, Song Tử- Đông... rộng lớn trù phú và dân cư sinh sống trên đảo đông đúc thuộc quyền kiểm soát của Đài Loan và Phi Luật Tân, Đảo Nam -Yết do Việt Nam cộng Hòa đóng trên đảo đã thiết lập đài khí tượng thủy văn không có dân chúng cư ngụ. Những đảo san hô còn lại như Trường Sa, Sơn Ca, Sinh Tồn, Song -Tử -Tây, An Bằng hoàn toàn bỏ hoang chưa thuộc chủ quyền của quốc gia nào.
Trong chiến dịch được mang tên Trần Hưng Đạo 48, ngày 9/3/1974 lúc 1g30ph chiều, chiếc yểm trợ hạm Cần Thơ H.Q 801 do hải quân trung tá Nguyễn Duy Long làm hạm trưởng cùng với sở thủy đạo, người nhái hải quân và toán công binh của đại đội 541 CBKT gồm khoảng 400 binh sĩ, hạ sĩ quan do tôi làm trưởng toán rời bến Tân Cảng Sài Gòn để ra khơi trực chỉ đảo Trường Sa.
Sau 2 ngày hải hành tàu đến địa điểm bỏ neo ngoài khơi đảo và đoàn chúng tôi xuống ca nô vào quan sát vị trí chung quanh đảo. Đảo này diện tích 300 x 400m. Chúng tôi được chuẩn úy Giáo thuộc tiểu khu Bà Rịa& Phước Tuy là "chúa Đảo" thuyết trình cho biết trung đội địa phương quân của anh mới đổ bộ lên đảo cách đây vài ngày. Kế tiếp toán công binh của tôi bắt đầu đổ quân & di chuyển vật liệu lên đảo. qua một tháng nỗ lực xây dựng vì nhu cầu công trường nên tóan của chúng tôi được đơn vị bạn công binh thay thế trở về đất liền tiếp tục xây cất Nghĩa Dũng Đài và mỗi quân nhân được tưởng thưởng một Hải vụ bội tinh.
Ngày 15/4/1975 như để thăm dò lần cuối cùng thái độ của Hoa Kỳ trong cuộc chến tranh Việt Nam, Bắc Việt đã huy động tàu chiến, bộ binh tấn công đánh chiếm các hòn đảo của Trường Sa mà Mỹ đã không một lời lên tiếng phản ứng. Theo thiểu ý của tôi, nhìn lại dữ kiện lịch sử cận đại của các nước nhược tiểu là đồng minh với Hoa Kỳ đã rút ra được bài học: "Vì quyền lợi và ảnh hưởng chính trị của Mỹ ở trong nước cũng như trên chính trường quốc tế". Các vị Tổng Thống của cả 2 đảng Cộng Hòa & Dân Chủ phải hướng về chủ trương và đường lối quốc gia Hoa Kỳ theo từng giai đoạn diễn biến của thế giới. Trong tình hình lúc ấy, viễn ảnh một cuộc đối đầu giữa Hoa Kỳ và Trung Cộng tại biển đông ai cũng thấy là sẽ khó tránh khỏi bởi tiềm năng nguồn năng lượng vô tận dầu hỏa còn nằm sâu trong lòng biển Đông, hơn nữa đây còn là trục lộ hàng hải chính giao điểm của các quốc gia qua lại. Vậy mà Bắc Việt chiếm gọn Trường Sa, Mỹ không nói một tiếng. Chiến xa Bắc Việt còn ngần ngại gì mà không kéo nhau vào Saigon.
Những ngày cuối cùng của Dinh Độc Lập
Ngày 8/4/1975 Trung úy Nguyễn Thành Trung lái F5 ném bom làm Dinh Độc Lập bị hư hại Đại Sảnh Đường. Đại đội 541 CBKT lại tạm xa rời nghĩa trang quân đội để vào sửa chữa Dinh cho đến 6g chiều ngày 26/4/1975 là ngày công tác cuối cùng trong Dinh Độc Lập.
Tôi còn nhớ rất rõ, vào lúc 6 giờ chiều ngày 28/4/1975 phi trường Biên Hòa hoàn tất việc di tản. Những tiếng nổ và lửa cháy suốt đêm cả một vùng trời cho đến sáng 29/4/1975 Biên Hòa bỏ ngỏ, cacù đơn vị pháo binh 175ly & 155ly lần lượt kéo về lập phòng tuyến bên cầu Đồng Nai nòng súng trực xạ và dân chúng di tản lũ lượt từng đoàn đủ mọi phương tiện đi về Saigon.
Vào lúc 1g chiều ngày 25/4/1975 vị Trung úy của Dinh độc Lập mà tôi thường tiếp xúc hàng ngày đến bắt tay xã giao thăm hỏi trong ánh mắt không vui, ngỏ ý mượn 6 anh em binh sĩ để lên trên lầu vào phòng khiêng một tủ sắt nhỏ mang đi. Theo tôi đây là tài sản riêng tư quý giá của gia đình cố Tổng Thống Thiệu mang đi vào phút chót.
Từ ngày 26-4 là lúc các đơn vị Quân Lực V.N.C.H đóng chung quanh cầu Đồng Nai bị pháo kích đồng thời nhiều toán đặc công Cộng Sản xâm nhập đánh phá lưu thông. Xa lộ Biên Hòa gián đoạn từng hồi. Công Binh đã có kế hoạch đặt chất nổ phá sập tất cả các cây cầu huyết mạch dẫn vào Sài Gòn, nhưng rồi kế hoạch đã không được thi hành.
Trong mốc thời gian ngắn ngủi công tác ở Dinh Độc Lập, tôi cũng đã có dịp nhìn thấy Tổng thống Thiệu , cụ Phó Trần Văn Hương với gương mặt suy tư lo âu và mệt mỏi lẫn buồn bã cùng các vị chính khách và tướng lãnh hối hả tấp nập ra vào phòng họp Dinh để rồi cuối cùng " kẻ ra đi người ở lại" đưa tới đại họa nước mất nhà tan vào tay Cộng Sản.
Tạm kết: mong góp phần hoàn tất Nghĩa Dũng Đài
Trong thời chiến tranh các thế hệ nối tiếp của người lính công binh nói riêng và Quân lực V.N.C.H nói chung đã xây dựng lên biết bao công trình mà cho tới ngày hôm nay vẫn còn tồn tại trong phần đất miền Nam như Dinh Độc Lập, Nghĩa trang Quân Đội Biên Hòa, bệnh viện Vì Dân, Đài Bảo Tháp Hoa Sen nằm cạnh nhà hát Hòa Bình Q10 Sài Gòn, cầu bê tông tiền áp Đà Rằng, các trục quốc lộ....
Nhớ lại chặng đường tuổi trẻ trôi nhanh với biết bao kỷ niệm thăng trầm đắng cay trong cuộc đời mà những bạn công binh cùng trang lứa như kiến trúc sư Thiếu úy Vũ Văn Dũng chỉ huy bắc chiếc cầu cho mặt trận An Điền & Rạch Bắp của quân đoàn III đã anh dũng hy sinh bên chiếc cầu nối nhịp dang dở, cán sự công chánh thiếu úy Trần Văn Sơn vĩnh viễn nằm lại vùng đất cao nguyên gió lạnh mưa mùa trên mặt trận Kon Tum.... Và biết bao anh hùng vô danh bất tử của Quân Dân & Cán chính V.N.C.H.
Giờ đây tôi chỉ ước nguyện mong ngày nào đó còn chút sức khỏe để đích thân về lại "NGHĨA TRANG QUỐC GIA BIÊN HÒA" góp một bàn tay hoàn tất công trình dang dở NGHĨA DŨNG ĐÀI và xây dựng "BIA TƯỞNG NIỆM" mồ chôn tập thể tử sĩ từ trần vào giờ thứ 25 của miền Nam nước VIỆT.
LÊ ĐỒNG
Mùa Q
uốc Nạn 2005

No comments:

Post a Comment