Search This Blog

Monday, August 26, 2013

10 lỗi cần tránh khi cài đặt phần mềm trên Linux

Việc cài đặt phần mềm trên hệ điều hành Linux không như trên các hệ điều hành khác. Dưới đây là 10 lỗi cần tránh khi cài đặt phần mềm trên hệ điều hành Linux
1. Thực hiện cài đặt từ nguồn khi hệ thống có nền tảng .rpm hay .deb

Nhiều người mới dùng Linux không biết rằng cả rpmapt (hay dkpg) đều theo dõi mọi phần mềm được cài đặt trên hệ thống. Tuy nhiên, những hệ thống này (rpm, aptdkpg) chỉ có thể theo dõi những phần mềm mà chúng cài đặt. Vì vậy khi bạn thấy một phần mềm không rõ ràng chỉ được lưu ở nguồn và bạn tự hiệu chỉnh nó thì hệ thống quản lý phần mềm sẽ không theo dõi được nó. Thay vào đó, bạn chỉ cần tạo một file .rpm hay .deb từ nguồn và cài đặt với hệ thống quản lý phần mềm, hệ thống có thể theo dõi mọi phần mềm được cài đặt.


2. Không chú ý tới nhóm ứng dụng quản lý phần mềm đồ họa ngoại vi

Hầu hết người dùng thậm chí không biết ra rằng có nhiều thiết bị đồ họa ngoại vi còn thực hiện đánh giá ngoài việc cài đặt phần mềm trong Linux. Với lệnh yum (một dòng lệnh của hệ thống quản lý phần mềm đối với rpm), bạn có thể sử dụng Yumex cho yum (được cài đặt cùng với yum install yumex), sử dụng Synaptic hay Adept cho apt (được cài đặt với apt-get install synaptic hay apt-get install adept).

3. Không cập nhật danh sách phần mềm hiện có thường xuyên

Khi sử dụng apt-get hay yum, chắc chắn rằng bạn đã cập nhật danh sách phần mềm hiện có, nếu không hệ thống của bạn sẽ không cập nhật được những phần mềm mới được cài đặt. Dùng lệnh apt-get update để cập nhật với apt-get, và dùng lệnh yum check-update để thực hiện cập nhật với yum.

4. Không bổ sung vùng lưu trữ cho yum hay apt-get

Cả yumapt-get sử dụng danh sách vùng lưu trữ cho biết vị trí những phần mềm hiện có được lưu trữ. Nhưng vùng lưu trữ mặc định (thường được gọi là repos) không bao gồm những phần mềm Linux quen thuộc với Linuxkind. Vì thế nếu bạn thực hiện cài đặt một chương trình thì yum (hay apt-get) sẽ không thể tìm thấy phần mềm đó, rất có thể bạn sẽ phải bổ sung một vùng lưu trữ vào danh sách nguồn.

Đối với yum, những nguồn đó nằm trong file /etc/yum.conf. Còn nguồn của apt-get nằm trong file /etc/apt/sources.list. Sau khi bổ sung một vùng lưu trữ mới, bạn phải thực hiện cập nhật để apt hay rpm nhận biết được vùng mới này.

5. Không thực hiện cài đặt nhanh từ một trình duyệt

Giống như hệ điều hành Windows, khi nhận thấy người dùng đang cố gắng tải về một ứng dụng có thể cài đặt, hệ thống sẽ hỏi xem có muốn hệ thống quản lý phần mềm thực hiện cài đặt file không hay chỉ lưu file vào ổ đĩa. Trong cả hai trường hợp này, hệ thống sẽ yêu cầu bạn nhập mật khẩu gốc (vì thế bạn phải có quyền truy cập để hệ thống tiếp tục làm việc). Phương pháp này khá hữu dụng (thực hiện với hệ thống nền tảng yum hay dpkg) vì nó giúp cho việc  định vị và bổ sung các thành phần phụ.

Thông thường, phương pháp này chỉ thực hiện được khi bạn đang tải một file tương thích với hệ thống. Nếu bạn cố gắng tải một file rpm trên một hệ thống nền tảng Debian, thì bạn sẽ không có tùy chọn thực hiện cài đặt file. Tuy nhiên bạn cũng có thể thực hiện cài đặt nhanh bằng cách lựa chọn hộp chọn Always Do This … trong phần popup của Firefox để mỗi lần bạn tải về một file cùng với hệ thống quản lý phần mềm nó sẽ tự động yêu cầu mật khẩu gốc và tiếp tục thực hiện cài đặt.

6. Quên dòng lệnh


Giả sử bạn đã cài đặt một máy chủ sử dụng Ubuntu hay Debian (một cài đặt phổ biến cho những máy chủ Linux) và chưa cài đặt giao diện đồ họa và màn hình. Để thực hiện bảo trì, bạn phải đăng nhập thông qua ssh (thường là như vậy) và bị giới hạn thực hiện lệnh. Dù vậy thì khả năng giữ cho hệ thống luôn ở trạng thái được cập nhật hay cài đặt những ứng dụng mới cũng không bị giới hạn. Bạn vẫn có thể dùng lệnh yum hay apt-get để quản lý phần mềm.

Đối với hệ thống nền tảng Debian, bạn có một lựa chọn khác đó là aptitude. Từ dòng lệnh, nhập lệnh aptitude và bạn sẽ thấy một giao diện khác hẳn so với apt. Hệ thống này rất dễ sử dụng và cung cấp cho bạn những tùy chọn cho phép duy trì một máy chủ không có giao diện đồ họa mà không làm mất đi chức năng nào. Aptitude liệt kê những bản cập nhật bảo mật, phần mềm có thể nâng cấp, phần mềm mới, phần mềm không được cài đặt, phần mềm không dùng được, phần mềm ảo và tác vụ. Khi kiểm tra trong danh sách, bạn không chỉ thấy những phần mềm đã được cài đặt và số lượng những phần mềm mới mà còn có một bản mô tả của mỗi phần mềm. Sau khi sử dụng aptitude, bạn sẽ thấy việc cập nhật phần mềm tron Linux đơn giản như thế nào, thậm chí là từ dòng lệnh thực hiện cập nhật.

7. Không chú ý khi giải nén file tar


Rất nhiều lần bạn thực hiện tải một phần mềm, và ngay lập tức giải nén mà không quan tâm tới nội dung của nó. Thông thường thì việc này không có vấn đề gì. Tuy nhiên cũng có vài trường hợp người tạo file nén/người bảo dưỡng file đã không cho biết toàn bộ nội dung của gói hiện không được lưu trữ trong một thư mục chính hay không. Do đó, thay vì tạo ra một thư mục mới chứa những nội dung của file nén (có thể gồm có hàng trăm file hay thư mục), thì những file này lại bị bung ra trong thư mục bạn giải nén chúng vào đó.

Để tránh điều này, bạn cần tạo một thư mục tạm thời và di chuyển file nén vào đó. Sau đó, khi giải nén, cho dù file nén có nằm trong một thư mục chính hay không thì cũng không đáng lo ngại. Phương pháp này sẽ giúp bạn tiết kiệm được nhiều thời gian dọn dẹp trong những trường hợp tương tự khi mà người tạo file nén không đưa tất cả các file vào một chung một thư mục.

8. Xóa file Makefile

Khi đang cài đặt từ nguồn, bạn có thể sẽ chạy make clean để xóa bỏ những file nguồn không cần thiết. Tuy nhiên nếu bạn xóa bỏ file Makefile thì việc gỡ bỏ không hề dễ dàng. Nếu bạn giữ nó lại, bạn có thể thường xuyên gỡ bỏ những chương trình bằng cách dùng lệnh make uninstall từ thư mục chứa file Makefile.

Chú ý: Không được đặt tất cả các file Makefle vào trong một thu mục. Trước tiên cần đổi tên chúng để biết chúng thuộc về chương trình nào. Khi bạn muốn gỡ bỏ chương trình đó, di chuyển file Makefile sang thư mục khác, đổi lại sang tên cũ và sau đó chạy lệnh uninstall. Sau khi đã gỡ bỏ được chương trình bạn có thể xóa file Makefile của chương trình đó.

9. Cài đặt sai cấu trúc

Bạn có thể thấy rằng nhiều file rpm sẽ có cấu trúc i386, i586. I686, PPC, 64, … Đó là vì nếu trong tên file rpm không có từ “noarch” thì file đó được tạo cho một cấu trúc cụ thể, và khi những file này được tạo ra cho cấu trúc đó thì chúng đã được tùy chỉnh cho phù hợp để chạy tốt hơn. Điều đó có nghĩa là không thể cài đặt một file cấu trúc i586 trên máy chuẩn 386? Tất nhiên là có. Tuy nhiên nó sẽ không chạy hiệu quả như trên cấu trúc chỉ định. Nhưng, hiện giờ bạn không thể cài đặt một file rpm cấu trúc PPC trên cấu trúc x86 vì cấu trúc PPC dành cho bộ chip Motorola. Và bạn cũng không thể cài đặt file cấu trúc 64 bit trên cấu trúc 32 bit. Ngược lại, bạn có thể cài đặt file cấu trúc 32 bit trên cấu trúc 64 bit (như trong trường hợp bạn muốn Firefox chạy với Flash trên máy cấu trúc 64 bit).

10. Không xác đinh được lỗi khi cập nhật kernel

Thông thường việc cập nhật các kernel là một nhiêm vụ của chuyên viên máy tính. Tuy nhiên với hệ thống quản lý gói, bất cứ ai cũng có thể cập nhật kernel. Nhưng cũng có một số vấn đề bạn cần biết. Thứ nhất đó là dung lượng bộ nhớ. Khi tiến hành cập nhật kernel, kernel cũ luôn được giữ lại. Nếu bạn liên tục cập nhật kernel, bộ nhớ hệ thống có thể bị đầy rất nhanh. Vì vậy tốt nhất bạn nên kiểm tra xem những kernel cũ nào có thể xóa bỏ được. Nếu bạn sử dụng rpm, chỉ cần dùng lệnh rpm –qa|grep kernel để kiểm tra bạn đã cài đặt những gì. Bạn có thể gỡ bỏ tất cả ngoại trừ hai kernel được cài đặt cuối cùng. Tốt nhất bạn nên giữ lại hai kernel này phòng trường hợp kernel bạn đang dùng bị lỗi.

Một vấn đề khác có liên quan tới driver của NDIVIA. Nếu bạn sử dụng kho chứa livna, bạn sẽ có cảm giác bị kẹt trong kernel livna. Vì vậy, trước tiên cần tiến hành cập nhật kernel sau đó tải và cài đặt driver của NVIDIA tương thích với kernel đó. Khi đó hệ thống sẽ yêu cầu bạn tìm đúng file rpm cho driver của NVIDIA, nhưng nó sẽ buộc bạn phải sử dụng kernel livna. Có thể bạn đã từng bị kẹt trong hệ thống này và gặp phải những vấn đề về video/kernel bị cô lập với file livna. Nếu đang sử dụng hệ thống Ubuntu, bạn có thể tránh những tình huống này bằng cách sử dụng Envy. Nhóm công cụ này sẽ giúp bạn cài đặt driver NVIDIA tốt nhất mà không làm ảnh hưởng tới kernel yêu thích của bạn. Sau khi kernel được nâng cấp bạn cần khởi động lại máy tính. Đó là lần duy nhất bạn phải khởi động lại máy Linux. Mặc dù bạn không khởi động lại thì máy của bạn vẫn hoạt động bình thường, nhưng nó hoạt động nhờ vào kernel cũ không có các tính năng mới và các biện pháp tăng cường bảo mật (và nhiều tính năng mới bổ sung khác).

SÁU ĐỈA BOOT CÓ THỂ CỨU MÁY TÍNH :

http://d.violet.vn/uploads/previews/507/320518/preview.swf


Truy cập hệ thống Linux bằng đĩa cứu trợ Knoppix

Cập nhật lúc 15h57' ngày 29/09/2009
Quản trị mạng - Knoppix là một hệ điều hành nền tảng Debian được thiết kế chạy trực tiếp từ ổ CD/DVD. Mặc dù Knoppix được thiết kế sử dụng như một Live CD nhưng người dùng cũng có thể cài đặt nó trực tiếp lên đĩa cứng như một hệ điều hành thông thường.

Đĩa cứu trợ Knoppix giúp bạn có thể truy cập vào mọi dữ liệu trên hệ thống khi máy chủ không thể khởi động bình thường. Bài viết này sẽ hướng dẫn cho bạn phương pháp sử dụng Knoppix.

Sử dụng đĩa cứu trợ Knoppix để khởi động máy chủ Linux rất dễ dàng. Bạn chỉ cần đưa đĩa Knoppix vào ổ CD/DVD rồi khởi động lại máy chủ. Sau đó hệ điều hành Knoppix sẽ tự động tải, tuy nhiên bạn sẽ không thể lập tức truy cập vào dữ liệu trên ổ cứng. Để làm được điều đó, trước tiên bạn sẽ phải cài mọi file hệ thống vào máy chủ. Các thao tác được mô tả dưới đây sẽ giúp bạn khắc phục sự cố khởi động không phải do lỗi file hệ thống. Nhưng nếu file hệ thống của máy chủ phát sinh lỗi cản trở cài đặt thì các thao tác này sẽ giúp bạn tìm ra một giải pháp khắc phục.

Để truy cập vào file hệ thống gốc trên máy chủ sử dụng đĩa Knoppix, trước tiên bạn sẽ phải cài đặt nó. Khi sử dụng hệ thống cứu trợ, bạn sẽ phải cài thư mục gốc trên một thư mục tạm thời. Hầu hết các bản phân phối đều có một thư mục /mnt được tạo sẵn để sử dụng trong trường hợp này, do đó bạn nên sử dụng thư mục này để cài file hệ thống vào đó. Tuy nhiên có một vấn đề là hầu hết các tiện ích không biết rằng các file cấu hình được lưu trữ trong các thư mục khác nhau. Ví dụ, nếu bản phân phối của bạn đang tìm kiếm file /boot/grub/menu.lst thì những công cụ này có thể sẽ không biết những thông tin được lưu trữ trong /mnt/boot/grub/menu.lst. Do đó bạn cần đảm bảo rằng mọi thứ phải được cài vào /mnt. Bạn chỉ cần thực hiện các thao tác sau:

1. Trước tiên khởi động hệ thống bằng đĩa CD Knoppix. Khi đó màn hình Welcome của Knoppix sẽ hiên ra. Tại đây, bạn hãy nhấn Enter để bắt đầu tải Knoppix.

2. Trong khi đang tải, Knoppix sẽ cho phép bạn lựa chọn ngôn ngữ (mặc định là tiếng Anh). Sau khi tải xong, bạn sẽ truy cập được vào màn hình Knoppix.

3. Để khôi phục khả năng truy cập vào máy chủ, bạn cần mở một cửa sổ terminal trong Knoppix. Mặc định, sau khi mở một cửa sổ terminal bạn sẽ có quyền truy cập của một người dùng thông thường. Để có thể khắc phục sự cố máy chủ, bạn phải có quyền truy cập gốc. Để có được quyền này hãy sử dụng lệnh sudo su.

4. Tiếp theo hãy sử dụng lệnh mount. Lệnh này cho biết hiện tại không có file hệ thống nào được tải, và nó chỉ hiển thị ổ đĩa RAM (mặc định Knoppix chỉ tải đĩa RAM).

5. Trong trường hợp không biết chính xác thứ tự ổ đĩa trong máy chủ thì bạn nên kiểm tra những phân vùng và ổ đĩa đang được sử dụng. Bạn nên sử dụng lệnh fdisk –l trước khi sử dụng các lệnh khác. Lệnh này sẽ hiển thị mọi ổ đĩa hiện có của máy chủ và hiển thị những phân vùng tồn tại trên các ổ đĩa đó. Thông thường tên ổ đĩa sẽ bắt đầu với các kí tự /dev/sd, và tiếp theo đó là là một chữ cái. Chẳng hạn, ổ đĩa thứ nhất sẽ là /dev/sda, ổ đĩa thứ hai là /dev/sdb, … Trên những ổ đĩa này, bạn sẽ thấy những phân vùng được đánh số. Ví dụ, /dev/sda1 là phân vùng thứ nhất trên máy chủ. Dưới đây là mẫu thông tin hiển thị của một ổ đĩa thông thường:
Sử dụng lệnh fdisk –l để xem bố cục ổ đĩa hiện thời của máy chủ.
ilulissat:/ # fdisk -l
Disk /dev/sda: 8589 MB, 8589934592 bytes
255 heads, 63 sectors/track, 1044 cylinders
Units = cylinders of 16065 * 512 = 8225280 bytes
Device Boot Start End Blocks Id System
/dev/sda1 * 1 13 104391 83 Linux
/dev/sda2 14 30 136552+ 82 Linux swap / Solaris
/dev/sda3 31 553 4200997+ 83 Linux

Wednesday, August 21, 2013

NHẬP VIỆN VÌ NHỨC ĐẦU

Chào bác sĩ Huy ,
1/Thời gian qua , tôi đã scan máy này nhiều lần và được biết ko có virus ; máy tự động restart sau khi đã shutdown có nhiều nguyên nhân , chứ ko phải chĩ do virus .
2/ Nhân tiện , gửi bs bản sao giấy ra viện để bs tham khảo . Trong email tôi viết quá ngắn chứ thật sự bs Mỹ gốc Việt này chẳng biết đó là tension headache hay migraine headache . Chụp CT scan thì chẳng thấy có tổn thương nào . Theo tôi , bịnh này có lẽ do stress mà ra : vì ko có tổn thương về thể chất (physical injury) , nên có thể là rối loạn về TÂM BỊNH LÝ HỌC  (psychosomatic disorder) . Tôi bị trầm cảm đã lâu , trên 30 năm , vẫn phải dùng Zoloft mỗi đêm . Ngoài ra còn uống Ambien , trị mất ngủ .


Monday, August 19, 2013

http://www.bbc.co.uk/vietnamese/multimedia/2013/08/130815_vinh_bao_musician_working_lives_video.shtml

Saturday, August 17, 2013

Những nguyên nhân không thể FULL SCREEN ở Windows VISTA .
1/ Driver cũa video card ko được update .
2/ Thiếu RAM (memory module ko đũ) .
3/ Và một số thuộc về hardware .
Thông thường , những problem này ko xãy ra ở Windows 7 vì HĐH này tự động update cho các driver (nghĩa là Vista ko có chức năng đó) .
Bạn nào , gặp probem trên , cho tôi biết ID và PW cũa Teamviewer để tôi vào máy bạn để tìm nguyên nhân  .

Monday, August 12, 2013

NGƯỜI ĐẸP TỰ RÁP MÁY TÍNH 'KHỦNG' , ĐỂ CHƠI GAME .
Thưa quí vị ,
1/Quí vị có thể TỰ MÌNH ráp một pc để chơi game với những đặc tính 'khủng' , bán ở Tigerdirect  với giá trên 680 đô . (Motherboard do MSI sản xuất) .
http://www.tigerdirect.com/applications/searchtools/item-details.asp?EdpNo=8237605&SRCCODE=WEBGOOPA&cm_mmc_o=mH4CjC7BBTkwCjCV1-CjCE&gclid=CMTBgLrt_7gCFQya4Aod6AsAuA
Muốn xem người đẹp , rất bắt mắt, ráp máy này thì vào :
http://www.youtube.com/watch?v=GvNnv7nh2Es
2/ Còn muốn mua máy rẻ hơn thì vào :
http://www.tigerdirect.com/applications/SearchTools/item-details.asp?EdpNo=8184287&csid=_61

Thursday, August 1, 2013

NỐI PC VỚI TV BẰNG HDMI CABLE

1 . Cách nối một tv hay monitor vào một pc bằng cách dùng dây hdmi , áp dụng cho Windows 7 .
Nguồn : http://h10025.www1.hp.com/ewfrf/wc/document?cc=us&lc=en&dlc=en&docname=c02013758
a/ Tắt pc và tắt monitor hay tv .
b/ Nối dây hdmi vào pc và màn hình .
c/ Mở màn hình , và chọn hdmi input (như nguồn input để xem) .
d/ Mở pc .
2 . Và áp dụng các bước sau để kích hoạt âm thanh hdmi trên pc .
a/Nhấp phải vào icon Volume , nằm trên taskbar .
b/ Chọn Playback Devices .
Trang Sound mở ra .
Trên thẻ Playback , chọn một trong những thứ sau , nếu có : NVIDIA high definition audio , ATI high definition audio , Realtek HDMI output .
Chọn Set Defaut .
Chọn Apply .
Chọn OK để đóng trang Sound . Thế là bạn đã kích hoạt âm thanh HDMI .
Ghi chú : HP khuyên bạn nên nối loa analog vào lổ audio line out cũa pc nếu bạn muốn nghe âm thanh trong lần điều chĩnh đầu tiên cũa pc .