" TÔI LÀM VIỆC NHƯ LÀ TÔI SẼ SỐNG 100 NĂM VÀ TÔI SỐNG NHƯ LÀ TÔI SẼ CHẾT VÀO NGÀY MAI " . RUDY PEREZ , NHẠC SĨ NỖI TIẾNG NGƯỜI MỸ GỐC CUBA .
Search This Blog
Showing posts with label ABC về luân hồi. Show all posts
Showing posts with label ABC về luân hồi. Show all posts
Saturday, December 17, 2016
Nhãn:
ABC về đời là vô thường,
ABC về luân hồi,
ABC VỀ THIỀN,
ẢNH CÁ NHÂN GIA ĐÌNH VÀ BÀ CON,
chụp tại TTHL Quang Trung
Thursday, September 15, 2016
KHÁI NIỆM "TRẢ NỢ DỒN" .
Theo Numerology cũng như Phật giáo , trả nợ dồn là trường hợp bạn có nhiều nợ nần CHƯA TRẢ trong các kiếp trước , tới kiếp này bạn quyết định TRẢ DỨT ĐIỂM để kiếp sau có cuộc sống thanh thản .
Cũng giống như 1 người buôn bán , trong tháng cuối cùng của năm , y chạy ngược chạy xuôi để trả hết nợ để năm tới y được thanh thản vì hết nợ .
Một ví dụ khác : một học sinh suốt năm học mãi mê chơi bời , sắp tới ngày thi y quýnh quáng học ngày học đêm để có thể thi đậu .
Theo Numerology , những người sanh ngày 4 , 8 , 13 , 17 , 22 , 26 , 31 hay có tên cộng lại bằng các số này ĐỀU NGHĨ RẰNG họ đã có nhiều nợ nần CHƯA TRẢ từ các kiếp trước , nay trong kiếp này quyết định trả hết ; nghĩa là sẽ chấp nhận mọi đau khổ , nhục nhã , chửi bới , v.v... để kiếp sau được thanh thản .
Tôi biết 1 cô sanh ngày 13 , có tên cộng lại cũng bằng 13 , lúc khoảng 13 tuổi bị tai nạn xe cộ gây tàn phế gần như vĩnh viễn . Cha mẹ y quá đau khổ : dựa vào Numerology tôi giải thích , do y đã chọn kiếp này để trả nợ dồn nên y đã chấp nhận mọi đau khổ do tàn phế gây ra cũng như chế nhạo , nếu có , của một số người khi thấy y bị tàn phế như vậy . Tôi khuyên gia đình nên động viên y để cố gắng chịu đựng đau khổ cũng như mọi chế nhạo .
Năm 1975 , cũng bằng 4 vì 1 + 9 + 7 + 5 = 22 = 4 = trả nợ dồn . TT Thiệu , TT Khiêm , tướng Phú đều có tên bằng 13 ; còn tiếp .
Theo Numerology cũng như Phật giáo , trả nợ dồn là trường hợp bạn có nhiều nợ nần CHƯA TRẢ trong các kiếp trước , tới kiếp này bạn quyết định TRẢ DỨT ĐIỂM để kiếp sau có cuộc sống thanh thản .
Cũng giống như 1 người buôn bán , trong tháng cuối cùng của năm , y chạy ngược chạy xuôi để trả hết nợ để năm tới y được thanh thản vì hết nợ .
Một ví dụ khác : một học sinh suốt năm học mãi mê chơi bời , sắp tới ngày thi y quýnh quáng học ngày học đêm để có thể thi đậu .
Theo Numerology , những người sanh ngày 4 , 8 , 13 , 17 , 22 , 26 , 31 hay có tên cộng lại bằng các số này ĐỀU NGHĨ RẰNG họ đã có nhiều nợ nần CHƯA TRẢ từ các kiếp trước , nay trong kiếp này quyết định trả hết ; nghĩa là sẽ chấp nhận mọi đau khổ , nhục nhã , chửi bới , v.v... để kiếp sau được thanh thản .
Tôi biết 1 cô sanh ngày 13 , có tên cộng lại cũng bằng 13 , lúc khoảng 13 tuổi bị tai nạn xe cộ gây tàn phế gần như vĩnh viễn . Cha mẹ y quá đau khổ : dựa vào Numerology tôi giải thích , do y đã chọn kiếp này để trả nợ dồn nên y đã chấp nhận mọi đau khổ do tàn phế gây ra cũng như chế nhạo , nếu có , của một số người khi thấy y bị tàn phế như vậy . Tôi khuyên gia đình nên động viên y để cố gắng chịu đựng đau khổ cũng như mọi chế nhạo .
Năm 1975 , cũng bằng 4 vì 1 + 9 + 7 + 5 = 22 = 4 = trả nợ dồn . TT Thiệu , TT Khiêm , tướng Phú đều có tên bằng 13 ; còn tiếp .
Thursday, August 27, 2015
Hãy quán chiếu sự sống trong phút giây hiện tại
- Cái đáng trân quý nhất là tìm lại được nhau, có nhau, "I love you too" "trong hiện tại.
(Bài này do một ng quen ở bang Washington gửi , vì thấy nó có giá trị nên đăng lại tren blog mình và xin chia xẻ đến các bạn . Tựa bài do tôi đặt -- Tài) .
"Thank chị D. H. !
"Đã đưa một câu chuyện câu chuyện cảm động. Quá để cho H. hiểu thêm về những tương quan trong đời sống: tình yêu, cái chết. Cũng để hiểu chắc chắn cái đáng trân quý nhất là tìm lại được nhau, có nhau, "I love you too" "trong hiện tại.
Hãy quán chiếu sự sống trong phút giây hiện tại"
TÌNH YÊU
Hương và cậu con trai lớn, khuôn mặt mới này cũng chỉ như một món đồ vừa được mua về ở tiệm, bầy đó, lấp một khoảng trống nào đó mà thôi. Ai vậy? Một chú két có màu xanh lá cây với những đường viền đỏ cam, vàng rực rỡ với đôi mắt sáng quắc tròn xoe, cái mỏ dài ngoằng hơi khoằm khoằm và một bên bàn chân bị khuyết tật!
“Tại sao con lại mua một con két có tật như vậy hả Duy?”
Đứa con trai lớn của Hương nhún vai cười:
“Có sao đâu mẹ? Nó vẫn đứng, vẫn bay bình thường như mọi con két khác trong khi nó đẹp nhất trong lồng mà lại rẻ và biết nói sẵn nữa, con khỏi phải “train” nó!”
Nàng vẫn cứ thắc mắc về một bên ngón chân bị cụt đến gần 2 đốt của con két tên Joshua mà Duy vừa mua về. Hương giao hẹn với con trai:
“Con chơi, con phải “take care” nó đó!”
“Mẹ đừng lo! Con lo cho nó mà!”
“Tại sao con biết là nó biết nói sẵn? Nó nói tiếng gì?”
“Chủ nó là một bà Mỹ, vậy chắc nó chỉ biết tiếng Mỹ!”
Duy lại nhìn mẹ cười, nụ cười của cậu thanh niên mới lớn thật tươi và thật dễ mến.
“Bà ta già phải vào nursing home nên mới gửi tiệm bán. Con mua rẻ lắm!”
Hương không nói gì mà chỉ lo con két làm bẩn nhà. Duy nhốt Joshua trong phòng ngủ và căn dặn mẹ cùng mọi người trong nhà đừng mở cửa phòng sợ Joshua bay mất. Nhốt nó vào lồng thì nó không chịu, nó sẽ chết! Hương than thầm trong bụng:
“Tại sao nó không chơi con gì khác cho sạch sẽ, dễ trông coi!” Nên ngay từ phút đầu Joshua có mang lại sự chú ý của Hương nhưng thiện cảm thì không! Nhưng chiều con, nàng cũng không cằn nhằn thêm.
Bắt đầu từ ngày đó trở đi trong nhà nàng lại có một “tù nhân” là con két xanh tên Joshua. Cửa phòng Duy lúc nào cũng khép trừ lúc có ai trong phòng. Cả nhà cũng chẳng mấy khi thấy mặt con Joshua, nên nó có đó mà cũng như không có. Thỉnh thoảng Hương mới thấy nó kêu chứ chưa hề thấy Joshua nói! Nhiều lần nàng định hỏi con xem con két đã nói những gì rồi thương hại Duy lại thôi.
Một hôm, Hương mở cửa vào phòng Duy. Con Joshua đang đứng trên thanh gỗ ngang. Đó là một loại chuồng chim nhưng trống cả bốn phía và chỉ đơn sơ có một thanh ngang làm chỗ đứng suốt ngày đêm cho Joshua, hai đầu một bên là thức ăn, một bên là nước uống. Bên dưới có một khay tròn lớn đựng cát để hứng mọi thứ chất dơ do Joshua thải ra. Thấy nàng bỗng nhiên Joshua xòe rộng hai cánh, vươn người lên nhún nhẩy và huýt gió.
Duy la lên:
“Mẹ thấy không, nó huýt gió đấy! Hễ thấy đàn bà, con gái là nó huýt gió! Nó thích mẹ đấy!”
Hương phì cười, nghĩ bụng " Nói thì không nói mà chỉ huýt gió!" Nàng đến gần, ngắm nghía chú két. Một mối thiện cảm nào đó nẩy sinh. Nàng nghiêng đầu nhìn nó. Nó cũng ngoẹo đầu nhìn Hương như muốn nói một cái gì? Hương bắt đầu chú ý đến sự có mặt của Joshua trong nhà. Từ hôm ấy, mỗi tối, nàng đều vào phòng Duy, ngồi bệt xuống thảm, gần chỗ con Joshua, và thử dậy nó nói vài chữ tiếng .. Việt.
Vài tháng trôi đi, một chữ tiếng Anh Joshua cũng không nói chứ đừng hòng gì đến nửa chữ tiếng Việt! Nhưng cứ mỗi lần thấy Hương là nó huýt sáo và vươn cánh làm đẹp. Nàng cũng thấy vui vui và dần dà quên mất đến chuyện là con két này không biết nói và đành chấp nhận nó như thế!
Duy đi mua một lô sách về nghiên cứu và tuyên bố với mẹ:
“Joshua chắc bị “shock” nặng nên nó không nói nữa!”
Và rồi câu chuyện của chú két xanh Joshua tưởng chỉ có vậy!
Cho đến một hôm, Hương đến tiệm Pet Shop, nơi mà Duy đã mua con két, để mua thức ăn cho Joshua. Bà chủ tiệm là người Việt, rất niềm nở khi thấy người đồng hương. Bà ta chỉ dẫn cặn kẽ loại thức ăn nào hợp cho két, nuôi dưỡng ra sao...
Trong câu chuyện trao đổi, Hương chợt hỏi:
“Thường những con bà bán ra mà có giấy tờ khai sinh, bà có lưu lại bản nào không?” “Có chứ ạ! Chúng tôi còn giữ lại tên và địa chỉ người bán, người mua, đủ hết”
“Cháu trai của tôi mua một con két ở đây tên Joshua, chân nó hơi có tật..”
Bà chủ tiệm nói ngay không đợi Hương nói thêm:
“Joshua! Tôi nhớ chứ! Một bà già Mỹ đã nhờ tôi bán khi bà ta phải vào nursing home. À! Cậu đó là con bà đấy ư?”
“Vâng, đúng đấy! Bà có trí nhớ tốt quá!”
“Cậu con bà có thích con Joshua không?”
“Chúng tôi quý nó lắm..có điều sao nó chẳng biết nói gì cả?”
“Có trường hợp như vậy xảy ra khi con vật bị sống xa chủ nhân của nó. Nhưng nhiều khi chỉ một thời gian nó quen với môi trường mới lại nói như két ngay ấy mà!”
Hương chép miệng:
“Cả hơn một năm rồi, đâu thấy nó nói gì đâu! Nó chỉ biết huýt sáo và kêu thôi!”
Bà chủ tiệm nhún vai, không biết phải trả lời thế nào trước sự than phiền của người khách.
Hương trả tiền đi ra, nhưng nghĩ sao nàng lại quay trở lại tìm người chủ tiệm:
“Bà có địa chỉ của bà cụ già trong nursing home, chủ trước của Joshua không?”
“Có chứ, để tôi lấy! Trừ phi bà ấy chết hay đổi chỗ thì chịu thua!”
Bà ta tìm một lúc rồi mặt tươi lên, hí hoáy viết vào tờ giấy đưa cho Hương:
“Chúc bà may mắn!”
Cầm tờ giấy trong tay Hương không biết mình sẽ làm gì? Vào gặp và thăm bà lão, nói chuyện về con két tên Joshua hay đưa Joshua vào thăm chủ cũ? Để làm gì? Nàng cũng chẳng hiểu tại sao những ý nghĩ đó lại đến trong đầu và rồi cứ lẩn quẩn ngày này sang ngày khác.
Một ngày Chủ Nhật cuối tuần, Hương và Joshua tìm đường vào nursing home mang tên là Pine Haven. Chưa bao giờ đặt chân vào một nursing home nào cả nên Hương cũng hơi tò mò. Nơi đây dù không xa nhà thương Memorial bao nhiêu nhưng nằm khuất trong một con đường cụt yên tĩnh rộng rãi, nhiều cây cối bao bọc chung quanh, có cả vườn cảnh cho người đi dạo tạo một cảm giác thật an bình.
Hương nhìn xuống tờ giấy, lẩm nhẩm tên bà lão:
“Alice Park! Alice ..Park!”
Joshua đậu trên vai Hương có vẻ thích thú khi được ra ngoài. Nó kêu những tiếng trong cổ họng nhịp theo với bước chân Hương tiến dần vào khuôn viên nursing home. Một vài người già ngồi trên xe lăn, phía sau có y tá đẩy. Hình ảnh đầu tiên đập vào mắt Hương là những khuôn mặt già nua bệnh hoạn bạc thếch theo với thời gian. Những khuôn mặt trắng nhờ nhờ với làn da trắng xanh không còn sinh khí hay những gương mặt da màu đã sạm lại và teo tóp.
Những đôi mắt u uẩn hay những cái nhìn mông lung vào một cõi nào xa xăm như thể tất cả đang sống trong một thế giơi riêng biệt mà những ngôn từ, động tác cử động cũng theo một cách thế khác. Nhịp sống nơi đây chắc chắn không giống như nhịp sống bên ngoài kia.
Người nữ tiếp viên ngồi ngay cửa vào ngửng lên nhìn Hương mỉm cười chào hỏi. Hương hỏi ngay:
“Tôi muốn vào thăm bà Alice Park. Chẳng hay bà ấy ở phòng số bao nhiêu hả cô?”
Cô gái cắm cúi giở sổ tìm rồi nhoẻn miệng cười thật xinh: “Dẫy A. Phòng số 210. Bà đi thẳng vào trong rồi quẹo trái, đến gần cuối hành lang là đúng chỗ đấy.”
“Cám ơn cô nhé!”
Cô gái nở nụ cười thay cho lời nói. Joshua bỗng huýt gió vang dội làm cả Hương lẫn cô gái phải bật cười.
“Nó tên gì vậy bà?”
“Joshua!”
“Hi Hoshua! Hi!”
Joshua chỉ nhìn cô gái và tiếp tục huýt sáo một cách thích thú. Cô ta còn giơ tay vẫy vẫy nó. Hương lại nhớ đến lời Duy bảo:”Nó thích đàn bà, con gái mẹ à!” Mà có lẽ thế thật!
Nàng và Joshua theo lời chỉ dẫn của cô gái. Bên trong cũng đẹp đẽ, sạch sẽ nhưng thoang thoảng mùi hôi, mùi khai quyện lấy mùi thuốc sát trùng. Dọc hành lang, bóng những cô y tá lên xuống nườm nượp. Đi ngang những căn phòng mở rộng cửa, Hương nhìn thấy những khổ ải của thân phận con người mà bệnh hoạn là một trong những thứ làm biến đổi người ta nhanh nhất.
Không giống nhà thương, mỗi phòng được trang trí một cách khác theo với ý thích của người bệnh hay người thân. Hương đi rất chậm để quan sát. Đầu giường những người bệnh hầu như đều có hình ảnh của một cuộc đời bên ngoài kia mà đã có một lần họ đã sống qua. Chút kỷ niệm hay chỉ là một nhắc nhở về mối liên hệ sao đó để người bệnh đỡ thấy lẻ loi, cô độc chăng?
Rẽ sang mé trái, Hương thấy ít y tá hơn và mùi hôi cũng giảm đi nhiều, hầu như không thấy mấy. Hương lẩm nhẩm trong đầu tìm số 210. “À! Đây rồi!”, nàng nhủ thầm. Phòng số 210 cũng không khác những phòng kia bao nhiêu và theo bảng tên ở ngoài thì bà Alice Park nằm bên mé trong, sau tấm màn kéo màu xanh nhạt. Giường bên ngoài không thấy người dù rất nhiều đồ đạc. Hương vào bên trong.
Đằng sau tấm màn, một bà lão tóc trắng phau, uốn quăn thưa thớt, đang ngồi dựa soải chân trên một xe lăn. Hai bàn tay bà trắng bệch và trong suốt với nhiều đường gân xanh tím chằng chịt. Cả hai bàn tay bám lấy hai thành xe lăn. Nghe tiếng động bà ta nhìn lên. Đôi mắt nhỏ xíu bỗng mở to lộ hai tròng con ngươi màu xanh đá nhạt lờ mờ như được dấu sau một bức phim mỏng. Cái miệng mỏng dính không còn thấy rõ mầu môi bỗng hơi há ra. Mắt bà ta như dán chặt vào con két trên vai Hương. Đôi bàn tay bà lão đang bám lấy thành xe lăn bỗng buông ra và run rẩy, giật liên hồi.
Tất cả những biến chuyển đó chỉ xảy ra trong vòng vài giây ngắn ngủi của thời gian đang cô đọng trong căn phòng chật hẹp mà Hương là người nhìn thấy rõ nhất. Nàng chưa kịp lên tiếng chào hay hỏi han xem bà lão có đúng là bà Alice Park hay không, nhưng Joshua đã nhanh hơn nàng. Nó bay sà đến đậu vào lòng bà ta và chợt kêu lên:
“Love ya, Mama! Love ya, Mama!”
Từ tiếng kêu đột ngột. Không! Phải nói là tiếng nói đột ngột thoát ra từ Joshua chợt như một tiếng ngân, mà sự vang dội cũng như cái tha thiết kéo dài run rẩy trong cái sẽ sàng làm cho sự tĩnh lặng đọng trong căn phòng chợt vỡ tan. Những đường nét cứng nhắc mỏi mệt trên khuôn mặt già nua của bà lão dường như hồi sinh theo với cái nhếch mép, há miệng mà những tiếng nói vẫn còn bị nhốt kín sâu thẳm trong tận cùng cổ họng, hay trong sâu thẳm của trái tim héo hon? Từng thớ thịt trên mặt bà lão giật nhẹ, đôi mắt cố mở to nhìn Joshua. Môi bà lão run run mà vẫn không tạo nên được một âm thanh nào. Chỉ có đôi mắt chớp khẽ. Riềm mi dưới đã ngả sang màu xám bạc chợt đậm màu hơn theo với giòng nước mắt đang tù từ lăn xuống.
Joshua hai chân bấu vào áo bà lão, vươn cổ, dùng mỏ ngoạm vào áo bà ta để trèo lên cho gần với khuôn mặt bà lão. Nó lại kêu lên, vẫn cái giọng đó:
“Love ya, Mama! Love ya, Mama! Joshua love ya!”
Không hiểu trong tiếng kêu thống thiết kỳ lạ đó có gì mà Hương thấy lồng ngực mình thắt lại. Bởi vì nàng không chỉ nhìn thấy, chỉ nghe, mà còn cảm nhận được cái tình yêu giữa Joshua và chủ cũ của nó như phút chốc nàng biến thành bà lão ngồi trên xe lăn kia, cũng chẩy nước mắt đón nhận lời nói yêu thương và cũng thấy lòng rạt rào những cảm xúc kỳ dị. Làm như thế gian này chỉ có một tình yêu và cả hai thực sự thuộc về nhau, như một nửa mảnh đời này tìm lại đúng nửa mảnh đời kia và ráp lại khít khao thành một khối duy nhất, không có gì có thể chia lìa. Joshua ở trong bà lão và ngược lại. Bà lão nhìn trong Joshua và thấy tình yêu của mình. Bà ta lắp bắp đôi môi nhưng không thành tiếng. Khuôn mặt bà lão bỗng tươi nhuận hẳn lên. Tình yêu, sự hiện diện của Joshua đã mang lại mạch sống cho bà. Và tình yêu đó tràn ngập căn phòng nhỏ. Joshua và bà Alice không còn biết đến sự có mặt của Hương.
Joshua vùi cái mỏ cứng nhắc của nó vào cổ bà lão, mắt nó lim dim như tận hưởng một sự trao gửi thiêng liêng nào đó mà chỉ có nó và người nhận hiểu được. Mãi, bà lão mới tìm lại được tiếng nói của mình. Giọng bà ta yếu ớt và thanh tao khi đưa hai tay vuốt ve Joshua:
“I love you too. Joshua! Mama love you!”
Con Joshua kêu lên những tiếng nho nhỏ trong cổ họng và cứ để yên cho bàn tay bà lão vuốt trên từng mảng lông của nó. Những ngón tay nhăn nheo, xương xẩu kia như một cây đũa thần làm Joshua biến đổi hẳn. Nó không còn là con két xanh đứng hai chân trên thanh ngang suốt ngày cú rũ trong căn phòng đóng kín cửa. Nó không còn là tên tù bị giam lỏng trong bốn bức tường kín ở nhà Hương. Joshua lại nói với bà lão:
“He hurt me!”
Bà ta sờ lần trên ngón chân khuyết tật của Joshua như thương cảm rồi ôm Joshua vào lòng:
“My poor baby! He’s gone! He’ll not hurt you anymore. Not anymore baby! He’s gone, baby! Do you miss me, Joshua?”
Joshua lập lại y hệt như vậy:
“Do you miss me, Joshua?”
Bà lão bật cười:
“No! Do you miss me, Mama?”
Nó lại lập lại vẫn với giọng lảnh lót:
“No! Do you miss me, Mama?”
Tự dưng Hương cũng cười theo. Lúc ấy bà lão mới để ý đến sự có mặt của nàng trong phòng. Tay vẫn ôm Joshua, bà ta nheo mắt nhìn Hương:
“Cô mang Joshua đến đây?”
Câu hỏi này thay cho câu hỏi: “Cô là chủ mới của Joshua?”. Có lẽ bà Alice vẫn xem như chỉ có bà là chủ của Joshua. Và bất cứ ai đó đến sau bà chỉ là người thay bà săn sóc nó mà thôi. Hương thấy ngay điều này nên nàng chỉ mỉm cười và đáp gọn:
“Vâng!”
Hương cũng chẳng tự giới thiệu mình là ai mà bà lão cũng chẳng hỏi tại sao nàng lại biết tìm đến đây. Tự dưng nàng cảm thấy như sự có mặt của mình ở đây là thừa thãi nên Hương lẳng lặng bước ra ngoài khi thấy bà Alice lại quay sang Joshua thầm thì những gì nàng nghe không rõ.
Nàng đi dọc theo hành lang ra ngoài đến sân sau. Chẳng ai hỏi gì mà cũng chẳng ai để ý đến ai. Hương tìm một băng ghế dưới gốc cây. Bây giờ đã là tháng Mười. Trời đã dịu hơn. Nắng vẫn rực rỡ như những ngày hè nhưng sao lại mát hơn? Có lẽ mùa Thu đã đến ở đâu đó và đang bứt dần những chiếc lá ra khỏi cành. Một đành đoạn chia ly tất nhiên! Nàng dựa lưng vào băng ghế nhìn những chiếc lá khô lao xao trên đỉnh đầu rồi lìa cành. Có những chiếc lá còn tiếc nuối, bay lượn vài vòng trước khi rơi chạm mặt đất, có chiếc rơi thật nhanh chúi đầu lao xuống, có chiếc vẫn run rẩy, không chịu lìa cây. Và những chiếc lá còn lại trên cây đang nhìn lên trời xanh trên kia hay nhìn xuống mặt đất để tiếc thương thay cho những chiếc lá đã bỏ đi trước? Nhưng có một điều chắc chắn những chiếc lá còn lại trên những tàng cây kia nhìn thấy được nỗi ngậm ngùi trong nàng ở ánh mắt không còn trong nữa. Cuộc đời, con người, và những tương quan trong đời sống, tình yêu, nỗi chết, rồi cũng chỉ như thế thôi!
Và rồi, Hương lại nghĩ đến hình ảnh trong căn phòng nhỏ sau lưng nàng: Joshua và bà Alice. Bà lão còn bao nhiêu thời gian để nói câu:”I love you too! Joshua!”, còn bao nhiêu thời gian nữa để ngập chìm trong yêu thương ấy?
Joshua? Thời gian của con két xanh với những riềm vàng, đỏ, cam rực rỡ, là bao xa? Nhưng có lẽ chắc chắn lúc này, cả bà lão và con Joshua đều chỉ biết đến cái hạnh phúc trân quý tìm lại được nhau, có nhau, cho dù thời gian đang trôi qua và ngày mai, ngày hôm sau nữa và những ngày kế tiếp có còn đến nữa hay không!
Nàng ngồi giữa cảnh trời bao la trong vắt trên cao kia trong những suy tưởng miên man. Thời gian qua bao lâu rồi? Hương nhìn đồng hồ: "2:30 chiều!" Nàng đã ở chỗ này lâu đến thế kia à? Đã đến lúc phải đưa Joshua trở về. Joshua phải trở về căn phòng của Duy và trở lại làm tù nhân trong một nơi chốn với đầy đủ thức ăn, nước uống, chỉ thiếu bàn tay của bà Alice!
Khi Hương trở lại căn phòng số 210, cảnh tượng âu yếm lúc trước không còn nữa. Joshua đang đậu trên thành giường, còn bà Alice nằm trên giường với bao nhiêu dây nhợ gắn vào người: nào là dây truyền thuốc, dây truyền thức ăn. Trông bà ta có vẻ mệt mỏi. Cô y tá da mầu có nụ cười xinh tươi nhìn Hương rồi hỏi: “Cô quen thế nào với bà Alice?”
Hương chỉ con Joshua:
“Qua con két này!”
“Thật à?”
Câu hỏi tuy ngắn, gọn nhưng bao hàm nhiều câu hỏi khác nữa. Hương phải giải thích sơ sơ:
“Bà ta là chủ trước của nó. Tôi đưa nó đến thăm chủ cũ. Vậy thôi!”
“Cô tử tế quá!”
Lần đầu tiên từ lúc gặp gỡ Hương thấy bà Alice nhìn nàng lâu hơn. Ánh mắt dịu xuống.
Hương đến gần Joshua và gọi, nàng làm như nó hiểu: “Joshua! Đến lúc phải đi về..”
Hình như nó biết nên cứ chần chờ. Mấy cái móng bấu chặt xuống thành giường, trừ ngón khuyết tật. Hương đến gần, nó càng nhích đi xa, mấy cái móng vẫn quặp chặt như một câu trả lời rõ ràng. Hương không biết phải làm sao! Joshua không huýt sáo như mỗi lần Hương gọi nó nữa! Như đọc được tất cả những ý nghĩ trong đầu của cả Hương và con Joshua, bà Alice gọi nó:
“Joshua!”
“Mama!”
Cô y tá thích thú kêu lên:
“Ồ nó nói được!”
“Go home, Joshua! Go home!”
Nó lập lại lời bà Alice:
“Go home! Go home!”
Nhưng vẫn không nhúc nhích, Joshua lại kêu lên:
“Love ya, Mama! Go home!”
Bà lão nhấc khẽ cánh tay đầy dây nhợ và xòe lòng bàn tay trắng bệch. Joshua bay lại, đậu trong lòng bàn tay bà lão. Nó dụi cái mỏ vào lòng bàn tay bà. Hương thấy bà ta nhắm mắt lại, không phải để đón nhận tình yêu như trước đây nhưng như một sự cam chịu hay một sự chống trả rất âm thầm nào đó. Bà lão lại nói với Joshua bằng một giọng thật nhỏ, như chỉ để cho mình nó nghe và hiểu:
“Go home, baby! You can not stay here.. I have no home now! Go, baby!..Go..”
Hương chợt thấy mi mắt nàng nặng trĩu. Quay sang người y tá, Hương hỏi một câu hỏi mà trong thâm tâm nàng cho rằng đây chỉ là một câu hỏi cầu may:
“Nó ở lại với bà cụ được không cô?” Cô y tá lắc đầu: “Ở đây toàn là người bệnh, luật không cho phép người bệnh nuôi thú vật trong này.”
Hương lặng im.
Và Joshua. Hình như hiểu được tất cả những gì bà Alice nói gọn trong vài chữ đó, hay chỉ là những cảm nhận thiêng liêng giữa Joshua và bà Alice. Chỉ giữa con két xanh và bà lão. Nó bay lên và đậu vào vai Hương nhưng vẫn kêu lên: “Love ya Mama!”
“I love you too, Joshua!”
Mở mắt ra, nhìn Hương, bà lão ngập ngừng nói:
“Cám ơn cô.. đã mang Joshua đến đây.. Thỉnh thoảng nếu được gặp nó thì.. vui lắm.”
Hương đến gần, nắm lấy bàn tay gầy guộc của bà Alice và nhẹ nhàng nói:
“Mỗi tuần tôi sẽ mang Joshua vào thăm bà!”
Bà Alice chợt nhắm mắt lại. Bà ta ngập ngừng:
“Cám ơn cô.. cám ơn cô nhiều lắm!”
Nàng đi ra và không nỡ quay lại nhìn căn phòng nhỏ có bà lão gầy gò với bao dây nhợ quanh người đang nằm đếm thời gian.
Có tiếng thổn thức mơ hồ không biết là của ai? Của bà lão? Của Joshua? Hay của chính Hương?
Mặc Bích
- Cái đáng trân quý nhất là tìm lại được nhau, có nhau, "I love you too" "trong hiện tại.
(Bài này do một ng quen ở bang Washington gửi , vì thấy nó có giá trị nên đăng lại tren blog mình và xin chia xẻ đến các bạn . Tựa bài do tôi đặt -- Tài) .
"Thank chị D. H. !
"Đã đưa một câu chuyện câu chuyện cảm động. Quá để cho H. hiểu thêm về những tương quan trong đời sống: tình yêu, cái chết. Cũng để hiểu chắc chắn cái đáng trân quý nhất là tìm lại được nhau, có nhau, "I love you too" "trong hiện tại.
Hãy quán chiếu sự sống trong phút giây hiện tại"
TÌNH YÊU
Hương và cậu con trai lớn, khuôn mặt mới này cũng chỉ như một món đồ vừa được mua về ở tiệm, bầy đó, lấp một khoảng trống nào đó mà thôi. Ai vậy? Một chú két có màu xanh lá cây với những đường viền đỏ cam, vàng rực rỡ với đôi mắt sáng quắc tròn xoe, cái mỏ dài ngoằng hơi khoằm khoằm và một bên bàn chân bị khuyết tật!
“Tại sao con lại mua một con két có tật như vậy hả Duy?”
Đứa con trai lớn của Hương nhún vai cười:
“Có sao đâu mẹ? Nó vẫn đứng, vẫn bay bình thường như mọi con két khác trong khi nó đẹp nhất trong lồng mà lại rẻ và biết nói sẵn nữa, con khỏi phải “train” nó!”
Nàng vẫn cứ thắc mắc về một bên ngón chân bị cụt đến gần 2 đốt của con két tên Joshua mà Duy vừa mua về. Hương giao hẹn với con trai:
“Con chơi, con phải “take care” nó đó!”
“Mẹ đừng lo! Con lo cho nó mà!”
“Tại sao con biết là nó biết nói sẵn? Nó nói tiếng gì?”
“Chủ nó là một bà Mỹ, vậy chắc nó chỉ biết tiếng Mỹ!”
Duy lại nhìn mẹ cười, nụ cười của cậu thanh niên mới lớn thật tươi và thật dễ mến.
“Bà ta già phải vào nursing home nên mới gửi tiệm bán. Con mua rẻ lắm!”
Hương không nói gì mà chỉ lo con két làm bẩn nhà. Duy nhốt Joshua trong phòng ngủ và căn dặn mẹ cùng mọi người trong nhà đừng mở cửa phòng sợ Joshua bay mất. Nhốt nó vào lồng thì nó không chịu, nó sẽ chết! Hương than thầm trong bụng:
“Tại sao nó không chơi con gì khác cho sạch sẽ, dễ trông coi!” Nên ngay từ phút đầu Joshua có mang lại sự chú ý của Hương nhưng thiện cảm thì không! Nhưng chiều con, nàng cũng không cằn nhằn thêm.
Bắt đầu từ ngày đó trở đi trong nhà nàng lại có một “tù nhân” là con két xanh tên Joshua. Cửa phòng Duy lúc nào cũng khép trừ lúc có ai trong phòng. Cả nhà cũng chẳng mấy khi thấy mặt con Joshua, nên nó có đó mà cũng như không có. Thỉnh thoảng Hương mới thấy nó kêu chứ chưa hề thấy Joshua nói! Nhiều lần nàng định hỏi con xem con két đã nói những gì rồi thương hại Duy lại thôi.
Một hôm, Hương mở cửa vào phòng Duy. Con Joshua đang đứng trên thanh gỗ ngang. Đó là một loại chuồng chim nhưng trống cả bốn phía và chỉ đơn sơ có một thanh ngang làm chỗ đứng suốt ngày đêm cho Joshua, hai đầu một bên là thức ăn, một bên là nước uống. Bên dưới có một khay tròn lớn đựng cát để hứng mọi thứ chất dơ do Joshua thải ra. Thấy nàng bỗng nhiên Joshua xòe rộng hai cánh, vươn người lên nhún nhẩy và huýt gió.
Duy la lên:
“Mẹ thấy không, nó huýt gió đấy! Hễ thấy đàn bà, con gái là nó huýt gió! Nó thích mẹ đấy!”
Hương phì cười, nghĩ bụng " Nói thì không nói mà chỉ huýt gió!" Nàng đến gần, ngắm nghía chú két. Một mối thiện cảm nào đó nẩy sinh. Nàng nghiêng đầu nhìn nó. Nó cũng ngoẹo đầu nhìn Hương như muốn nói một cái gì? Hương bắt đầu chú ý đến sự có mặt của Joshua trong nhà. Từ hôm ấy, mỗi tối, nàng đều vào phòng Duy, ngồi bệt xuống thảm, gần chỗ con Joshua, và thử dậy nó nói vài chữ tiếng .. Việt.
Vài tháng trôi đi, một chữ tiếng Anh Joshua cũng không nói chứ đừng hòng gì đến nửa chữ tiếng Việt! Nhưng cứ mỗi lần thấy Hương là nó huýt sáo và vươn cánh làm đẹp. Nàng cũng thấy vui vui và dần dà quên mất đến chuyện là con két này không biết nói và đành chấp nhận nó như thế!
Duy đi mua một lô sách về nghiên cứu và tuyên bố với mẹ:
“Joshua chắc bị “shock” nặng nên nó không nói nữa!”
Và rồi câu chuyện của chú két xanh Joshua tưởng chỉ có vậy!
Cho đến một hôm, Hương đến tiệm Pet Shop, nơi mà Duy đã mua con két, để mua thức ăn cho Joshua. Bà chủ tiệm là người Việt, rất niềm nở khi thấy người đồng hương. Bà ta chỉ dẫn cặn kẽ loại thức ăn nào hợp cho két, nuôi dưỡng ra sao...
Trong câu chuyện trao đổi, Hương chợt hỏi:
“Thường những con bà bán ra mà có giấy tờ khai sinh, bà có lưu lại bản nào không?” “Có chứ ạ! Chúng tôi còn giữ lại tên và địa chỉ người bán, người mua, đủ hết”
“Cháu trai của tôi mua một con két ở đây tên Joshua, chân nó hơi có tật..”
Bà chủ tiệm nói ngay không đợi Hương nói thêm:
“Joshua! Tôi nhớ chứ! Một bà già Mỹ đã nhờ tôi bán khi bà ta phải vào nursing home. À! Cậu đó là con bà đấy ư?”
“Vâng, đúng đấy! Bà có trí nhớ tốt quá!”
“Cậu con bà có thích con Joshua không?”
“Chúng tôi quý nó lắm..có điều sao nó chẳng biết nói gì cả?”
“Có trường hợp như vậy xảy ra khi con vật bị sống xa chủ nhân của nó. Nhưng nhiều khi chỉ một thời gian nó quen với môi trường mới lại nói như két ngay ấy mà!”
Hương chép miệng:
“Cả hơn một năm rồi, đâu thấy nó nói gì đâu! Nó chỉ biết huýt sáo và kêu thôi!”
Bà chủ tiệm nhún vai, không biết phải trả lời thế nào trước sự than phiền của người khách.
Hương trả tiền đi ra, nhưng nghĩ sao nàng lại quay trở lại tìm người chủ tiệm:
“Bà có địa chỉ của bà cụ già trong nursing home, chủ trước của Joshua không?”
“Có chứ, để tôi lấy! Trừ phi bà ấy chết hay đổi chỗ thì chịu thua!”
Bà ta tìm một lúc rồi mặt tươi lên, hí hoáy viết vào tờ giấy đưa cho Hương:
“Chúc bà may mắn!”
Cầm tờ giấy trong tay Hương không biết mình sẽ làm gì? Vào gặp và thăm bà lão, nói chuyện về con két tên Joshua hay đưa Joshua vào thăm chủ cũ? Để làm gì? Nàng cũng chẳng hiểu tại sao những ý nghĩ đó lại đến trong đầu và rồi cứ lẩn quẩn ngày này sang ngày khác.
Một ngày Chủ Nhật cuối tuần, Hương và Joshua tìm đường vào nursing home mang tên là Pine Haven. Chưa bao giờ đặt chân vào một nursing home nào cả nên Hương cũng hơi tò mò. Nơi đây dù không xa nhà thương Memorial bao nhiêu nhưng nằm khuất trong một con đường cụt yên tĩnh rộng rãi, nhiều cây cối bao bọc chung quanh, có cả vườn cảnh cho người đi dạo tạo một cảm giác thật an bình.
Hương nhìn xuống tờ giấy, lẩm nhẩm tên bà lão:
“Alice Park! Alice ..Park!”
Joshua đậu trên vai Hương có vẻ thích thú khi được ra ngoài. Nó kêu những tiếng trong cổ họng nhịp theo với bước chân Hương tiến dần vào khuôn viên nursing home. Một vài người già ngồi trên xe lăn, phía sau có y tá đẩy. Hình ảnh đầu tiên đập vào mắt Hương là những khuôn mặt già nua bệnh hoạn bạc thếch theo với thời gian. Những khuôn mặt trắng nhờ nhờ với làn da trắng xanh không còn sinh khí hay những gương mặt da màu đã sạm lại và teo tóp.
Những đôi mắt u uẩn hay những cái nhìn mông lung vào một cõi nào xa xăm như thể tất cả đang sống trong một thế giơi riêng biệt mà những ngôn từ, động tác cử động cũng theo một cách thế khác. Nhịp sống nơi đây chắc chắn không giống như nhịp sống bên ngoài kia.
Người nữ tiếp viên ngồi ngay cửa vào ngửng lên nhìn Hương mỉm cười chào hỏi. Hương hỏi ngay:
“Tôi muốn vào thăm bà Alice Park. Chẳng hay bà ấy ở phòng số bao nhiêu hả cô?”
Cô gái cắm cúi giở sổ tìm rồi nhoẻn miệng cười thật xinh: “Dẫy A. Phòng số 210. Bà đi thẳng vào trong rồi quẹo trái, đến gần cuối hành lang là đúng chỗ đấy.”
“Cám ơn cô nhé!”
Cô gái nở nụ cười thay cho lời nói. Joshua bỗng huýt gió vang dội làm cả Hương lẫn cô gái phải bật cười.
“Nó tên gì vậy bà?”
“Joshua!”
“Hi Hoshua! Hi!”
Joshua chỉ nhìn cô gái và tiếp tục huýt sáo một cách thích thú. Cô ta còn giơ tay vẫy vẫy nó. Hương lại nhớ đến lời Duy bảo:”Nó thích đàn bà, con gái mẹ à!” Mà có lẽ thế thật!
Nàng và Joshua theo lời chỉ dẫn của cô gái. Bên trong cũng đẹp đẽ, sạch sẽ nhưng thoang thoảng mùi hôi, mùi khai quyện lấy mùi thuốc sát trùng. Dọc hành lang, bóng những cô y tá lên xuống nườm nượp. Đi ngang những căn phòng mở rộng cửa, Hương nhìn thấy những khổ ải của thân phận con người mà bệnh hoạn là một trong những thứ làm biến đổi người ta nhanh nhất.
Không giống nhà thương, mỗi phòng được trang trí một cách khác theo với ý thích của người bệnh hay người thân. Hương đi rất chậm để quan sát. Đầu giường những người bệnh hầu như đều có hình ảnh của một cuộc đời bên ngoài kia mà đã có một lần họ đã sống qua. Chút kỷ niệm hay chỉ là một nhắc nhở về mối liên hệ sao đó để người bệnh đỡ thấy lẻ loi, cô độc chăng?
Rẽ sang mé trái, Hương thấy ít y tá hơn và mùi hôi cũng giảm đi nhiều, hầu như không thấy mấy. Hương lẩm nhẩm trong đầu tìm số 210. “À! Đây rồi!”, nàng nhủ thầm. Phòng số 210 cũng không khác những phòng kia bao nhiêu và theo bảng tên ở ngoài thì bà Alice Park nằm bên mé trong, sau tấm màn kéo màu xanh nhạt. Giường bên ngoài không thấy người dù rất nhiều đồ đạc. Hương vào bên trong.
Đằng sau tấm màn, một bà lão tóc trắng phau, uốn quăn thưa thớt, đang ngồi dựa soải chân trên một xe lăn. Hai bàn tay bà trắng bệch và trong suốt với nhiều đường gân xanh tím chằng chịt. Cả hai bàn tay bám lấy hai thành xe lăn. Nghe tiếng động bà ta nhìn lên. Đôi mắt nhỏ xíu bỗng mở to lộ hai tròng con ngươi màu xanh đá nhạt lờ mờ như được dấu sau một bức phim mỏng. Cái miệng mỏng dính không còn thấy rõ mầu môi bỗng hơi há ra. Mắt bà ta như dán chặt vào con két trên vai Hương. Đôi bàn tay bà lão đang bám lấy thành xe lăn bỗng buông ra và run rẩy, giật liên hồi.
Tất cả những biến chuyển đó chỉ xảy ra trong vòng vài giây ngắn ngủi của thời gian đang cô đọng trong căn phòng chật hẹp mà Hương là người nhìn thấy rõ nhất. Nàng chưa kịp lên tiếng chào hay hỏi han xem bà lão có đúng là bà Alice Park hay không, nhưng Joshua đã nhanh hơn nàng. Nó bay sà đến đậu vào lòng bà ta và chợt kêu lên:
“Love ya, Mama! Love ya, Mama!”
Từ tiếng kêu đột ngột. Không! Phải nói là tiếng nói đột ngột thoát ra từ Joshua chợt như một tiếng ngân, mà sự vang dội cũng như cái tha thiết kéo dài run rẩy trong cái sẽ sàng làm cho sự tĩnh lặng đọng trong căn phòng chợt vỡ tan. Những đường nét cứng nhắc mỏi mệt trên khuôn mặt già nua của bà lão dường như hồi sinh theo với cái nhếch mép, há miệng mà những tiếng nói vẫn còn bị nhốt kín sâu thẳm trong tận cùng cổ họng, hay trong sâu thẳm của trái tim héo hon? Từng thớ thịt trên mặt bà lão giật nhẹ, đôi mắt cố mở to nhìn Joshua. Môi bà lão run run mà vẫn không tạo nên được một âm thanh nào. Chỉ có đôi mắt chớp khẽ. Riềm mi dưới đã ngả sang màu xám bạc chợt đậm màu hơn theo với giòng nước mắt đang tù từ lăn xuống.
Joshua hai chân bấu vào áo bà lão, vươn cổ, dùng mỏ ngoạm vào áo bà ta để trèo lên cho gần với khuôn mặt bà lão. Nó lại kêu lên, vẫn cái giọng đó:
“Love ya, Mama! Love ya, Mama! Joshua love ya!”
Không hiểu trong tiếng kêu thống thiết kỳ lạ đó có gì mà Hương thấy lồng ngực mình thắt lại. Bởi vì nàng không chỉ nhìn thấy, chỉ nghe, mà còn cảm nhận được cái tình yêu giữa Joshua và chủ cũ của nó như phút chốc nàng biến thành bà lão ngồi trên xe lăn kia, cũng chẩy nước mắt đón nhận lời nói yêu thương và cũng thấy lòng rạt rào những cảm xúc kỳ dị. Làm như thế gian này chỉ có một tình yêu và cả hai thực sự thuộc về nhau, như một nửa mảnh đời này tìm lại đúng nửa mảnh đời kia và ráp lại khít khao thành một khối duy nhất, không có gì có thể chia lìa. Joshua ở trong bà lão và ngược lại. Bà lão nhìn trong Joshua và thấy tình yêu của mình. Bà ta lắp bắp đôi môi nhưng không thành tiếng. Khuôn mặt bà lão bỗng tươi nhuận hẳn lên. Tình yêu, sự hiện diện của Joshua đã mang lại mạch sống cho bà. Và tình yêu đó tràn ngập căn phòng nhỏ. Joshua và bà Alice không còn biết đến sự có mặt của Hương.
Joshua vùi cái mỏ cứng nhắc của nó vào cổ bà lão, mắt nó lim dim như tận hưởng một sự trao gửi thiêng liêng nào đó mà chỉ có nó và người nhận hiểu được. Mãi, bà lão mới tìm lại được tiếng nói của mình. Giọng bà ta yếu ớt và thanh tao khi đưa hai tay vuốt ve Joshua:
“I love you too. Joshua! Mama love you!”
Con Joshua kêu lên những tiếng nho nhỏ trong cổ họng và cứ để yên cho bàn tay bà lão vuốt trên từng mảng lông của nó. Những ngón tay nhăn nheo, xương xẩu kia như một cây đũa thần làm Joshua biến đổi hẳn. Nó không còn là con két xanh đứng hai chân trên thanh ngang suốt ngày cú rũ trong căn phòng đóng kín cửa. Nó không còn là tên tù bị giam lỏng trong bốn bức tường kín ở nhà Hương. Joshua lại nói với bà lão:
“He hurt me!”
Bà ta sờ lần trên ngón chân khuyết tật của Joshua như thương cảm rồi ôm Joshua vào lòng:
“My poor baby! He’s gone! He’ll not hurt you anymore. Not anymore baby! He’s gone, baby! Do you miss me, Joshua?”
Joshua lập lại y hệt như vậy:
“Do you miss me, Joshua?”
Bà lão bật cười:
“No! Do you miss me, Mama?”
Nó lại lập lại vẫn với giọng lảnh lót:
“No! Do you miss me, Mama?”
Tự dưng Hương cũng cười theo. Lúc ấy bà lão mới để ý đến sự có mặt của nàng trong phòng. Tay vẫn ôm Joshua, bà ta nheo mắt nhìn Hương:
“Cô mang Joshua đến đây?”
Câu hỏi này thay cho câu hỏi: “Cô là chủ mới của Joshua?”. Có lẽ bà Alice vẫn xem như chỉ có bà là chủ của Joshua. Và bất cứ ai đó đến sau bà chỉ là người thay bà săn sóc nó mà thôi. Hương thấy ngay điều này nên nàng chỉ mỉm cười và đáp gọn:
“Vâng!”
Hương cũng chẳng tự giới thiệu mình là ai mà bà lão cũng chẳng hỏi tại sao nàng lại biết tìm đến đây. Tự dưng nàng cảm thấy như sự có mặt của mình ở đây là thừa thãi nên Hương lẳng lặng bước ra ngoài khi thấy bà Alice lại quay sang Joshua thầm thì những gì nàng nghe không rõ.
Nàng đi dọc theo hành lang ra ngoài đến sân sau. Chẳng ai hỏi gì mà cũng chẳng ai để ý đến ai. Hương tìm một băng ghế dưới gốc cây. Bây giờ đã là tháng Mười. Trời đã dịu hơn. Nắng vẫn rực rỡ như những ngày hè nhưng sao lại mát hơn? Có lẽ mùa Thu đã đến ở đâu đó và đang bứt dần những chiếc lá ra khỏi cành. Một đành đoạn chia ly tất nhiên! Nàng dựa lưng vào băng ghế nhìn những chiếc lá khô lao xao trên đỉnh đầu rồi lìa cành. Có những chiếc lá còn tiếc nuối, bay lượn vài vòng trước khi rơi chạm mặt đất, có chiếc rơi thật nhanh chúi đầu lao xuống, có chiếc vẫn run rẩy, không chịu lìa cây. Và những chiếc lá còn lại trên cây đang nhìn lên trời xanh trên kia hay nhìn xuống mặt đất để tiếc thương thay cho những chiếc lá đã bỏ đi trước? Nhưng có một điều chắc chắn những chiếc lá còn lại trên những tàng cây kia nhìn thấy được nỗi ngậm ngùi trong nàng ở ánh mắt không còn trong nữa. Cuộc đời, con người, và những tương quan trong đời sống, tình yêu, nỗi chết, rồi cũng chỉ như thế thôi!
Và rồi, Hương lại nghĩ đến hình ảnh trong căn phòng nhỏ sau lưng nàng: Joshua và bà Alice. Bà lão còn bao nhiêu thời gian để nói câu:”I love you too! Joshua!”, còn bao nhiêu thời gian nữa để ngập chìm trong yêu thương ấy?
Joshua? Thời gian của con két xanh với những riềm vàng, đỏ, cam rực rỡ, là bao xa? Nhưng có lẽ chắc chắn lúc này, cả bà lão và con Joshua đều chỉ biết đến cái hạnh phúc trân quý tìm lại được nhau, có nhau, cho dù thời gian đang trôi qua và ngày mai, ngày hôm sau nữa và những ngày kế tiếp có còn đến nữa hay không!
Nàng ngồi giữa cảnh trời bao la trong vắt trên cao kia trong những suy tưởng miên man. Thời gian qua bao lâu rồi? Hương nhìn đồng hồ: "2:30 chiều!" Nàng đã ở chỗ này lâu đến thế kia à? Đã đến lúc phải đưa Joshua trở về. Joshua phải trở về căn phòng của Duy và trở lại làm tù nhân trong một nơi chốn với đầy đủ thức ăn, nước uống, chỉ thiếu bàn tay của bà Alice!
Khi Hương trở lại căn phòng số 210, cảnh tượng âu yếm lúc trước không còn nữa. Joshua đang đậu trên thành giường, còn bà Alice nằm trên giường với bao nhiêu dây nhợ gắn vào người: nào là dây truyền thuốc, dây truyền thức ăn. Trông bà ta có vẻ mệt mỏi. Cô y tá da mầu có nụ cười xinh tươi nhìn Hương rồi hỏi: “Cô quen thế nào với bà Alice?”
Hương chỉ con Joshua:
“Qua con két này!”
“Thật à?”
Câu hỏi tuy ngắn, gọn nhưng bao hàm nhiều câu hỏi khác nữa. Hương phải giải thích sơ sơ:
“Bà ta là chủ trước của nó. Tôi đưa nó đến thăm chủ cũ. Vậy thôi!”
“Cô tử tế quá!”
Lần đầu tiên từ lúc gặp gỡ Hương thấy bà Alice nhìn nàng lâu hơn. Ánh mắt dịu xuống.
Hương đến gần Joshua và gọi, nàng làm như nó hiểu: “Joshua! Đến lúc phải đi về..”
Hình như nó biết nên cứ chần chờ. Mấy cái móng bấu chặt xuống thành giường, trừ ngón khuyết tật. Hương đến gần, nó càng nhích đi xa, mấy cái móng vẫn quặp chặt như một câu trả lời rõ ràng. Hương không biết phải làm sao! Joshua không huýt sáo như mỗi lần Hương gọi nó nữa! Như đọc được tất cả những ý nghĩ trong đầu của cả Hương và con Joshua, bà Alice gọi nó:
“Joshua!”
“Mama!”
Cô y tá thích thú kêu lên:
“Ồ nó nói được!”
“Go home, Joshua! Go home!”
Nó lập lại lời bà Alice:
“Go home! Go home!”
Nhưng vẫn không nhúc nhích, Joshua lại kêu lên:
“Love ya, Mama! Go home!”
Bà lão nhấc khẽ cánh tay đầy dây nhợ và xòe lòng bàn tay trắng bệch. Joshua bay lại, đậu trong lòng bàn tay bà lão. Nó dụi cái mỏ vào lòng bàn tay bà. Hương thấy bà ta nhắm mắt lại, không phải để đón nhận tình yêu như trước đây nhưng như một sự cam chịu hay một sự chống trả rất âm thầm nào đó. Bà lão lại nói với Joshua bằng một giọng thật nhỏ, như chỉ để cho mình nó nghe và hiểu:
“Go home, baby! You can not stay here.. I have no home now! Go, baby!..Go..”
Hương chợt thấy mi mắt nàng nặng trĩu. Quay sang người y tá, Hương hỏi một câu hỏi mà trong thâm tâm nàng cho rằng đây chỉ là một câu hỏi cầu may:
“Nó ở lại với bà cụ được không cô?” Cô y tá lắc đầu: “Ở đây toàn là người bệnh, luật không cho phép người bệnh nuôi thú vật trong này.”
Hương lặng im.
Và Joshua. Hình như hiểu được tất cả những gì bà Alice nói gọn trong vài chữ đó, hay chỉ là những cảm nhận thiêng liêng giữa Joshua và bà Alice. Chỉ giữa con két xanh và bà lão. Nó bay lên và đậu vào vai Hương nhưng vẫn kêu lên: “Love ya Mama!”
“I love you too, Joshua!”
Mở mắt ra, nhìn Hương, bà lão ngập ngừng nói:
“Cám ơn cô.. đã mang Joshua đến đây.. Thỉnh thoảng nếu được gặp nó thì.. vui lắm.”
Hương đến gần, nắm lấy bàn tay gầy guộc của bà Alice và nhẹ nhàng nói:
“Mỗi tuần tôi sẽ mang Joshua vào thăm bà!”
Bà Alice chợt nhắm mắt lại. Bà ta ngập ngừng:
“Cám ơn cô.. cám ơn cô nhiều lắm!”
Nàng đi ra và không nỡ quay lại nhìn căn phòng nhỏ có bà lão gầy gò với bao dây nhợ quanh người đang nằm đếm thời gian.
Có tiếng thổn thức mơ hồ không biết là của ai? Của bà lão? Của Joshua? Hay của chính Hương?
Mặc Bích
Friday, August 21, 2015
ĐỜI LÀ VỞ TUỒNG , MÀ CHÚNG TA LÀ DIỂN VIÊN : CHÚNG TA PHẢI ĐÓNG TRỌN VẸN VAI TRÒ ĐƯỢC GIAO -- ĐẠI VĂN HÀO SHAKESPEARE .
![]() |
TRONG VAI CHUẪN ÚY : CHỤP TẠI SÂN THƯỢNG CỦA NHÀ Ở ĐƯỜNG ĐỖ THÀNH NHÂN , QUẬN 4 , SÀI GÒN , KHOẢNG 1969-70 . |
![]() | ||||
TRONG VAI THIẾU ÚY CHỤP TẠI TÒA ĐÔ CHÁNH, KHOẢNG 1971.
|
![]() |
TRONG VAI BÁN HÀNG CHO CỬA HÀNG QUẦN JEAN TẠI HỘI CHỢ QUANG TRUNG NĂM CÓ ĐỔI TIỀN 1985 . |
![]() |
TRONG VAI THÔNG DỊCH VIÊN CHO MỘT TỔ CHỨC PHI CHÍNH PHỦ PHÁP TẠI SÀI GÒN . CHỤP TRƯỚC TỦ SÁCH Ở NHÀ (ẢNH TRÊN) VÀ TRƯỚC NHÀ THỜ DI LINH, KHOẢNG ĐẦU THẬP NIÊN 1990 (ẢNH DƯỚI) . |
![]() |
HÌNH CHỤP LÀM HỒ SƠ ĐI MỸ NĂM 1994 VÌ ĐÓNG VAI TÙ NHÂN GẦN SÁU NĂM TỪ NAM CHÍ BẮC (1975-81) . |
![]() |
TRONG VAI THÀY GIÁO DẠY TOÁN TẠI MỸ TỪ 1998-2001 . HÌNH 1 , TẠI BÀN LÀM VIỆC TRONG PHÒNG NGỦ ; H2 , VỚI CÁC HỌC TRÒ , TRỪ NGƯỜI MANG SỐ 1 VÀ 2 . |
Tuesday, July 21, 2015
Nhãn:
ABC về đời là vô thường,
ABC về luân hồi,
anh bạn La Vie En Rose,
ẢNH CÁ NHÂN GIA ĐÌNH VÀ BÀ CON
Tuesday, November 4, 2014
Phật Giáo Tại Thái Lan
Kinh chuyen de tim hieu.
Mountainer
Lake Elsinore, Cali.
Phật giáo đã đóng góp tích cực vào trong đời sống của người dân Thái
không những về mặt vật chất, kinh tế mà còn đi sâu vào đời sống tinh
thần của
họ.
Thái
Lan (Thailand), tên cũ gọi là Siam (Xiêm-la), một quốc gia nằm trong
vùng Ðông Nam châu Á. Phía Bắc và Tây giáp với Miến Ðiện, Ðông Bắc giáp
với Lào, Nam giáp với Mã Lai, và vịnh Siam giáp với Campuchia. Thủ đô
Bangkok, diện tích: 514.000 km2, dân số 60 triệu (thống kê năm 1999),
mật độ dân cư: 108,4 người/km2. Ngôn ngữ chính là Thái ngữ, nhưng tiếng
Anh và tiếng Hoa (Tiều châu) cũng rất thông dụng.
Nguyên
thủ quốc gia hiện nay là Vua Bhumibol Adulyadej. Sau khi nền quân chủ
chuyên chế kết thúc vào năm 1932, đất nước Thái Lan đã lật sang một
trang mới. Là một quốc gia mà Phật giáo được xem quốc giáo và là một
nước có nhiều nguồn tài nguyên thiên nhiên, nhưng chưa bao giờ biến
thành một nước thuộc địa của các đế quốc châu Âu như các nước láng giềng
khác, Thái Lan đã có một nền công nghiệp phát triển vào cuối những năm
80 nhờ những nguồn đầu tư từ nước ngoài. Thu nhập bình quân đầu người
hiện nay ở Thái Lan là trên dưới 2000 đô la.
Phật
giáo là quốc giáo của Thái Lan (những tôn giáo nhỏ khác là Ky Tô giáo,
Hồi giáo và Ấn giáo). Thái Lan được biết đến như "vùng đất tự do", "quê
hương của nụ cười", "đất nước của những chiếc áo cà sa". Tên gọi cuối
cùng này đã mô tả một cách sâu sắc về một tôn giáo lớn mà dân tộc Thái
đang tôn thờ.
Lịch
sử Thái Lan được chia thành 4 thời kỳ qua các triều đại: Sukhothai,
Ayutthaya, Thon Buri và Rattanakosin (Bangkok). Thời kỳ đầu của triều
đại Sukhothai (1237-1456), Phật giáo (PG) đã được xem là quốc giáo của
dân tộc Thái.
Hiện
tại, tổng số 95% dân chúng được ghi nhận là tín đồ PG, hầu hết là theo
truyền thống Theravada. Theo sự thống kê gần đây (1998) cho thấy, có
trên 30.000 ngôi Chùa ở 75 tỉnh thành của Thái Lan. Con số tăng sĩ Thái
Lan không có con số nhất định mà tùy thuộc vào mùa mỗi năm. Con số cao
nhất được ghi nhận là 350.000 tăng sĩ hiện diện trong mùa nhằm vào mùa
kiết đông an cư của chư tăng Thái, từ tháng 7 đến tháng 9 mỗi năm. Ngoài
những vị đã chính thức được truyền Cụ Túc giới (Upasamapada), số còn
lại là những tăng sinh tập sự hoặc tu gieo duyên, tuổi từ 6 cho đến 19,
con số này đông không thể thống kê được.
Nguồn gốc truyền nhập Phật giáo vào Thái Lan
Nhiều
nguồn tư liệu cho rằng Phật giáo được truyền vào Thái Lan vào đầu thế
kỷ thứ 3 trước Tây Lịch (khoảng năm 241 tr TL) theo sau cuộc truyền bá
Chánh pháp quy mô của nhà vua Phật tử Asoka (A Dục) đến Tích Lan và Miến
Ðiện. PG Thái Lan (PGTL) về sau còn tiếp nhận thêm nhiều nhà truyền bá
đến từ Miến Ðiện vào năm 1044 và các pháp sư đến từ Tích Lan vào năm
1155. Hầu hết là theo truyền thống PG Theravada. Tuy vậy, PG chỉ thực sự
đặt lại nền móng, phát triển và ảnh hưởng sâu rộng vào xã hội Thái Lan
từ triều đại Sukhothai (1237-1456). Trong thời kỳ này có rất nhiều vị
vua tín ngưỡng Phật Pháp, xây dựng chùa chiền, ủng hộ việc đào tạo tăng
tài để phát triển Chánh pháp, thậm chí có nhiều vị xuất gia tu học luôn,
như Vua Ramkhamheng và Vua Lithai.
Ðặc
biệt, Vua Lithai là một ông Vua Phật tử anh minh, từ ái, thương dân như
con của mình, kể cả những kẻ đối đầu với mình, những người chống lại
Thái Lan. Ông đã có công xây chùa và đúc tượng Phật rất nhiều trong thời
ông trị vì. Những tượng đồng thật lớn hiện nay vẫn còn tôn thờ ở Chùa
Buddhajinarai, Chùa Phrarinatnahadhatu, Chùa Sadassana v.v. đều được đúc
từ thời của ông.
Tiếp
đến là các triều đại Ayudhya (1350-1766), Thonburi (1766-?) và triều
đại Bangkok (1782-cho đến nay) do vua Rama I thiết lập, PG đã tiếp tục
phát triển mạnh trong mọi lĩnh vực. Ðặc biệt các vị Vua trong triều đại
Bangkok, có nhiều vị đã xuất gia tu học và sáng tác nhiều tác phẩm văn
học PG giá trị để cống hiến cho đời.
Có
thể nói triều đại Bangkok là một triều đại ủng hộ cho PG phát triển mọi
mặt.
Nhất là Vua Rama V (vua Mongkut) đã xuất gia tu học ở Chùa
Bovoranives, ông đã tổ chức biên tập lại Tam Tạng Thánh Ðiển PG, bằng
tiếng Pali vào năm 1888, đến năm 1893 hoàn thành với 39 quyển. Ðây là
một bộ Tam Tạng Thánh Ðiển PG đầu tiên trên thế giới bằng tiếng Pàli
được in trên giấy (trước đây chỉ viết trên lá bối). Bộ Tam Tạng này sau
đó được ấn tống ra rất nhiều để gởi tặng các PG trên thế giới. Nhà vua
cũng cho thành lập hệ phái Dhammayuttika gồm các tu sĩ tu hạnh đầu đà,
vẫn còn hoạt động cho đến ngày nay ở miền Ðông Bắc, song song với hệ
phái chính là Mahanikaya là hệ phái của đa số tu sĩ Thái.
Ðến
năm 1934, Vua Rama VII đã cho cải biên lại thành 45 tập, biểu trưng cho
số năm hoằng pháp của Phật. Bộ Ðại Tạng này đến năm 1940, dưới triều
đại của Vua Rama VIII, vị Tăng thống Tissadeva đã tập hợp được hơn 200
vị tăng lầu thông ngôn ngữ Pali để phiên dịch ra tiếng Thái. Cuối cùng
bộ Ðại Tạng Kinh tiếng Thái cũng đã hoàn tất vào năm 1952, gồm 70 tập,
trong đó có 42 tập thuộc Tạng Kinh, 13 tập thuộc Tạng Luật và 25 tập
thuộc Tạng Luận, sở phí in ấn công trình vĩ đại này được đóng góp của
toàn nhân dân và Chính phủ Thái vào lúc ấy.
Trong
triều đại của Vua Bhulmibol Adulyadej (Rama IX) từ 1946 đến nay, PG
cũng phát triển đều đặn về các lĩnh vực văn hóa, y tế và giáo dục. Ðặc
biệt, vị vua này đã ủng hộ cho công trình đưa Tam Tạng Thánh Ðiển Phật
Giáo (Tipitaka) vào cất giữ trong hệ thống điện tử CD-ROM, công trình
này bắt đầu thực hiện từ năm 1987 để kỷ niệm sinh nhật lần thứ 60 của
ông. Ðến nay đã hoàn thành được bốn đĩa CD-ROM, gồm các thứ tiếng Pali,
Thái, Miến, Khmer và Tích Lan, tổng cộng có 115 quyển, 50.189 trang, 210
tỷ chữ ( mỗi đĩa chứa khoảng 500 triệu chữ).
Ðịa chỉ vào xem hoặc thỉnh
CD-ROM này là:
Chùa
và tăng sĩ đóng một vai trò rất quan trọng trong xã hội Thái trên 700
năm qua. Chúng ta sẽ lần lượt tìm hiểu về những vai trò này của họ qua
các lĩnh vực giáo dục, kinh tế, văn hóa và xã hội sau đây:
* Về giáo dục
Tăng
sĩ Thái Lan đã đóng một vai trò rất quan trọng trong lĩnh vực này. Ngôi
trường đầu tiên được thành lập ở Thái Lan được xây dựng ngay trên khu
đất của Chùa và những giáo viên đầu tiên là tăng sĩ. PG đã nắm giữ vai
trò này trong một thời gian dài cho đến triều đại của Vua Chulalongkorn
(Rama V) thì ngành giáo dục phổ cập chính thức ra đời.
Các
trường công lần lượt được mở bên ngoài tu viện, các trường PG dần dần
được tiếp quản bởi bộ giáo dục Thái, điều này dẫn tới vị trí của tăng sĩ
trong lĩnh vực giáo dục bị thu hẹp dần. Các giáo viên thế gian cũng
được thay thế và tăng sĩ hiện nay chỉ còn dạy một ít môn học như giáo lý
căn bản, công dân giáo dục....
Ngày
nay, tuy vai trò của PG không còn can thiệp nhiều vào ngành giáo dục
phổ cập, nhưng những di sản của PG để lại, vẫn giữ nguyên giá trị và vẫn
đứng vững trong lòng của dân tộc Thái. Những tòa biệt thự đồ sộ của bộ
giáo dục, những ngôi trường lớn, những tổ chức từ thiện... phần lớn vẫn
còn nằm trong khuôn viên của Chùa. Những ngôi trường Trung học và Ðại
học có uy tín và danh tiếng, có nhiều tiêu chuẩn cao trong việc học và
dạy, đều gợi lại cho người ta nhớ đến một quá khứ tốt đẹp thông qua sự
hoạt động của tăng sĩ PG Thái.
* Về kinh tế:
Phật
giáo cũng đóng một vai trò đáng kể trong môi trường kinh tế của người
dân Thái. Nhiều lời Phật dạy về cách chọn nghề chân chính và thực hiện
công việc làm ăn chân chính, đã được áp dụng rộng rãi trong mọi gia tầng
của xã hội Thái, và người dân Thái biết làm thế nào để duy trì một gia
đình hạnh phúc, ổn định về kinh tế qua giáo lý của nhà Phật.
Theo
truyền thống, những tăng sĩ Thái thường đóng vai trò người lãnh đạo
trong các công trình lớn. Do xuất phát từ trái tim từ bi, vô vị kỷ mà họ
được xem là những nhà cố vấn và giám sát công trình thành công nhất,
chi phí được giảm xuống, những trục trặc, trở ngại trong tiến trình xây
dựng cũng ít xảy ra.
Mặt khác, những chùa ở Thái Lan cũng mở trường huấn
nghệ cho dân chúng như bào chế thuốc Nam, thợ mộc, thợ nề và nhiều
ngành nghề thủ công khác. Nói chung, dân chúng đã nhận được nhiều sự lợi
lạc về kinh tế từ nhà Chùa và các tăng sĩ cũng luôn ý thức rằng bổn
phận của họ không chỉ có trách nhiệm giúp đỡ và chăm sóc đời sống tâm
linh mà còn quan tâm đến đời sống kinh tế cho người dân nữa.
Những lễ nghi:
Sinh
hoạt tín ngưỡng PG luôn là một phần quan trọng trong đời sống của người
dân Thái, từ lúc mới chào đời, trưởng thành, lễ cưới, ma chay... đều có
liên quan đến chùa chiền và tăng sĩ.
Lễ Ðặt Tên: Khi
sanh con, cha mẹ thường thỉnh y Quý Thầy đặt tên cho con mình, vì họ
tin rằng tên được chọn từ các Thầy sẽ vừa đẹp đẽ về mặt ngôn ngữ lẫn ý
nghĩa. Tiếp đó là Quý Thầy sẽ làm lễ đặt tên và tụng một thời kinh cầu
an cho đứa bé.
Lễ Thọ Giới: Nghi
thức thứ hai này cũng rất quan trọng và bắt buộc đối với mọi thanh niên
Thái, kể cả các bậc vua chúa, khi họ ở vào giai đoạn trưởng thành, mười
tám đến hai mươi tuổi. Thông thường, họ vào Chùa tu tập ba tháng, một
năm hoặc ba năm, tùy theo sở thích và ước nguyện của mỗi người. Nhiều
bậc cha mẹ muốn con cái của họ được dự lễ thọ giới này trước khi lập gia
đình hoặc khi bắt đầu một nghề nghiệp chính thức. Vì rằng, buổi lễ này
sẽ giúp cho người ấy có được một tâm hồn rộng lớn hơn được kèm với giới
luật, những lời phát nguyện trong buổi lễ này sẽ khiến cho người ấy phải
trân trọng và gìn giữ suốt một đời người. Nó là nền tảng vững chắc cho
đời sống tâm linh của người dân Thái.
Theo
truyền thống, buổi lễ diễn ra sau một thời gian ngắn người ấy thực tập
trong Chùa. Lễ truyền giới được tổ chức trong suốt tháng bảy của mỗi
năm. Vào ngày trước khi thọ giới, vị thanh niên ấy được cạo đầu và được
mặc một bộ y màu trắng. Quý Thầy lớn tuổi được cung thỉnh về nhà của vị
ấy để tụng kinh cầu an và tiếp nhận sự cúng dường. Bạn bè và những người
thân cũng được phép tham dự buổi lễ đặc biệt này để cho vị ấy tạ từ
trước khi bước vào đời sống mới.
Vào
ngày lễ truyền giới, vị Thầy tương lai này được hướng dẫn đi kinh hành
vòng quanh tu viện trước khi được đưa vào bên trong điện Phật mà chư
giới sư đã hiện diện sẵn. Sau khi trải qua một loạt kiểm tra về những
điều luật cần thiết của một tăng sĩ, vị ấy được các bậc trưởng lão giới
sư tuyên bố là các vị chính thức trở thành tăng sĩ PG, cho phép gia nhập
vào tăng đoàn và ngay lập tức được trao cho ba chiếc y màu vàng nghệ,
một chiếc bình bát và những vật dụng cần thiết của một người tăng sĩ.
Sau
khi thọ giới Tỳ kheo xong, vị ấy sống tinh cần, thanh tịnh và luôn được
đào tạo một cách nghiêm khắc để có thể kiểm soát thân và tâm của mình
theo giới luật đã thọ. Vị ấy phải sống nghiêm túc theo giới luật như một
tăng sĩ thật sự trong thời gian lưu trú trong tu viện. Tuy nhiên, vị ấy
có thể trở về với thân phận của một người thế tục ở bất kỳ thời điểm
nào mà vị ấy muốn.
Lễ Cưới: Phật giáo cũng đóng vai trò quan trọng trong hôn lễ, buổi lễ sẽ giúp cho hai người có một sự kết hợp thiêng liêng trong lễ cưới.
Thông
thường, các Tỳ kheo được cung thỉnh đến tụng kinh cầu an trong căn nhà
của đôi tân hôn ấy vào buổi chiều trước lễ cưới của họ. Buổi sáng hôm
sau cặp vợ chồng này đem thức ăn cúng dường cho chư Tăng trước khi họ
tiến hành hôn lễ. Chư Tăngtiếp đó sẽ đọc kinh cầu phúc và rải nước thánh
lên cô dâu và chú rễ. Những quan khách tham dự lễ cưới đổ nước thánh từ
một vỏ sò xuống bàn tay của đôi vợ chồng. Những bàn tay khác của quan
khách được chống lại thành đóa sen búp để tỏ lòng tôn kính và chúc mừng
trong khi đôi tân hôn quỳ xuống trên một chiếc ghế thấp, mỗi người được
đeo một vòng hoa liên kết với nhau, để tượng trưng cho sự thắt chặt cuộc
sống tương lai của họ.
Lễ Tang: Lễ
nghi này cũng rất quan trọng trong đời sống của người dân Thái. Tang lễ
được tổ chức tùy theo phong tục của từng địa phương, nhưng phần lớn vẫn
được áp dụng theo nghi thức Phật giáo.
Sau
khi một người đã qua đời, thông thường một nghi thức tắm và thay đồ xảy
ra vào buổi trưa đầu tiên. Vị Thầy chủ lễ đến làm phép và rải nước hoa
lên nhục thân của người chết, một sợi thiêng liêng được kéo qua ba lần
trên thi thể người quá cố, rồi cắt bỏ, tượng trưng cho sợi dây ràng buộc
của tham ái, sân hận và si mê nay không còn nữa. Thi hài được nhập tẩm
liệm vào buổi chiều và được trang hoàng với nhiều vòng hoa tươi xung
quanh quan tài. Quý Thầy và bạn bè thay phiên nhau tụng kinh cầu siêu
đến lúc lễ hỏa táng hay địa táng xảy ra. Vào ngày cuối của tang lễ, một
buổi lễ cúng dường trai tăng được tổ chức để hồi hướng công đức siêu độ
vong linh.
Sau
lễ hỏa táng, tro cốt của người mất được thu nhặt lại, một ít được đặt
vào bình đựng cốt, thờ tại nhà hoặc Chùa và phần còn lại được rải xuống
biển hay được ném vào trong gió, biểu hiện việc làm lợi ích cho môi
trường xung quanh.
Mỗi
năm đến ngày giỗ của người mất, Quý Thầy và bè bạn được mời đến nhà để
tụng kinh siêu độ, ban phúc lành lên tro cốt của người mất và trong dịp
này những lễ cúng dường cho Quý Thầy cũng được tổ chức để tạo phước
duyên cho người quá cố.
Phật giáo Thái với công tác từ thiện xã hội
Ðược
thấm nhuần từ lời dạy từ bi của Ðức Phật, các tăng sĩ PG Thái đã trở
nên tích cực, để hết tâm trí vào các vấn đề phúc lợi xã hội.
Một
trong những vị sư nổi tiếng về công tác này là Hòa thượng Chamroon,
Chùa Thamkrabok ở tỉnh Saraburi thuộc miền Trung Thái Lan, vị này có uy
tín trong việc điều trị khỏi chứng nghiện ma túy. Vì nhìn thấy cái khổ
triền miên của người nghiện mà Ngài đã cố công nghiên cứu và bào chế ra
một loại dược thảo để chữa bệnh và đã thành công. Những kết quả gần đây
cho thấy rằng sự điều trị của Trung tâm Ngài có hiệu quả hơn 70%. Hiện
tại, nhiều ngàn người đã đổ xô về Trung tâm cai nghiện ma túy của Ngài
để tìm sự giúp đỡ, trong đó người ta thấy có cả những con nghiện đến từ
Mỹ và châu Âu. Ðiều đáng kể là tiền lệ phí chữa bệnh và ở nội trú với
giá rất thấp. Nhờ thế mà Trung tâm của Ngài ngày càng đông thêm. Chính
quyền Thái Lan đã ủng hộ và tài trợ cho Trung tâm này trong nhiều năm
qua.
Ðịa chỉ web page là:http://www.thamkrabok.org.
Các
tăng sĩ PG không chỉ đóng vai trò điều trị về thân bệnh mà họ còn phục
vụ xuất sắc trong lĩnh vực chữa khỏi tâm bệnh. Những tăng sĩ Thái Lan
được xem là những nhà tư vấn về tâm lý hay nhất xưa nay ở xứ sở này.
Ngôi chùa và đời sống của người dân Thái
Chùa, một kho tàng an toàn nhất: Người
dân Thái Lan thường cảm thấy bất an khi giữ những đồ quý giá trong nhà
của họ, vì thế họ đã gởi vào trong Chùa và xin phép vị trụ trì lưu trữ
những vật quý ấy trong Chùa.
Chùa cũng là nơi an toàn: để
bảo trì bộ Ðại Tạng Kinh viết trên lá bối bằng tiếng Pàli, những bộ
sách lịch sử của các Vương triều của Thái Lan, những sách có giá trị
thời cổ đại của ngành thương mãi của Thái Lan được viết trên lá cau, lá
dừa... vẫn còn bảo trì cho đến ngày nay.
Chùa là nơi để bảo tồn: những
pho tượng Phật vô giá của dân tộc Thái, phần lớn tượng được đúc bằng
vàng, đồng và ngọc. Theo tín ngưỡng của người dân Thái, những pho tượng
lâu đời này có một sức mạnh tâm linh vô cùng đặc biệt, đã có thể báo
trước những sự kiện nguy hiểm và tai họa sắp xảy ra cho người dân Thái.
Chùa, nơi tạm trú: Trong
quá khứ, khi chưa có nhà trọ hay khách sạn, người du khách từ nơi này
đến nơi khác, không có nơi tạm trú một đêm, trong hoàn cảnh đó chỉ có
Chùa là nơi họ hướng về. Cánh cửa Chùa luôn rộng mở cho những ai cần
đến, luôn sẵn sàng giúp đỡ cho tất cả mọi người dân. Nhiều người nghèo ở
nông thôn có con đi học ở Bangkok hay ở những thành phố khác, không có
tiền trả ký túc xá, họ đã gởi con vào tạm trú trong Chùa.
Chùa, nơi hội họp: Chùa
ở Thái Lan luôn luôn có một phòng hội họp rộng lớn và một sân chơi thể
thao. Mỗi khi có hội họp trong làng xã đó, họ thường tập trung về Chùa.
Sân thể thao được sử dụng vào nhiều mục đích khác nhau, ngoài việc chơi
thể thao cho thanh thiếu niên trong vùng, còn là nơi để tổ chức bầu cử
quốc hội, nơi tuyển quân ra trận, nơi chích ngừa, nơi có những cuộc
meeting lớn....
Chùa là một trung tâm văn hóa: Chùa
là nơi bảo tồn những bài hát điệu nhảy, những vở kịch truyền thống có
giá trị của Thái Lan. Chùa cũng là nơi duy trì và tồn lại đủ các kiểu
kiến trúc, điêu khắc, chạm trổ của Thái Lan từ xưa cho đến nay.
Một số tổ chức Phật giáo tại Thái Lan
Thái
Lan được biết đến như là một vùng đất tự do, do đó có nhiều tổ chức Phi
Chính phủ đã được thành lập tại đất nước này, trong đó có hai tổ chức
Phật giáo Thế giới đều được đặt trụ sở chính tại nơi đây, đó là World Buddhist Followship (viết tắt: WBF, Hội Liên Hữu Phật Giáo Thế Giới) và International Network of Engaged Buddhists (viết tắt: INEB, tạm dịch: Tổ Chức Quốc Tế Các Phật Tử Dấn Thân).
Về
Hội WBF được thành lập vào ngày 25 tháng 5 năm 1950 tại Tích Lan với
năm chủ trương như sau: 1) Khuyến khích hội viên học và tu theo lời Phật
dạy; 2) Siết chặt tình hữu nghị, đoàn kết và thống nhất giữa các quốc
gia Phật giáo; 3) Ðẩy mạnh công tác truyền bá giáo lý mầu nhiệm của
Phật; 4) Tổ chức và đưa các hoạt động Phật sự vào trong các lĩnh vực như
xã hội, giáo dục, văn hóa; 5) Mang lại hòa bình, an lạc và hạnh phúc
đến cho hành tinh này và sẳn sàng liên kết với những tổ chức khác có
cùng đường hướng.
Ðể
đạt được mục đích trên, WFB đã cho thành lập nhiều chi nhánh trên khắp
thế giới và một Hội đồng trị sự gồm các ban như: Ban Giáo dục, in ấn và
nghệ thuật, Ban Hoằng pháp, Ban Từ thiện, Ban Ðoàn kếât, Ban Tài
chánh.... Trong 30 năm hoạt động, với sự ủng hộ nhiệt thành của các
Chính phủ Tích Lan, Miến Ðiện và Thái Lan, từ 27 chi nhánh ban đầu đã
phát triển lên đến 123 chi nhánh, từ 39 quốc gia trên khắp các châu lục.
Về trụ sở Trung ương được đặt tại Tích Lan từ năm 1950 đến 1958, sau đó
được dời qua Miến Ðiện, sau sáu năm (1958-1963) đặt tại Miến, trụ sở
một lần nữa lại chuyển qua đến Thái Lan từ năm 1963 đến nay. (Ðịa chỉ
liên lạc của hội là: World Fellowship of Buddhists, 616 Benjasiri Park,
Soi Medhinivet off Soi Sukhumvit 24, Sukhumvit Road, Bangkok 10110,
Thailand. Tel: 662.661.128489. Fax: 662.661.0555). Hội WBF vừa tổ chức
đại hội định kỳ lần thứ 20 tại Úc châu và theo kế hoạch Ðại hội lần thứ
21 của WFB sẽ được tổ chức tại Tích Lan vào năm 2000. (Xin vào địa chỉ
sau đây để biết thêm về hiệp hội này: http://www.zip.com.au/-
Về
Hiệp hội INEB do đạo hữu người Thái Sulak Sivaraksa kết hợp với Hòa
thượng người Nhật Bản Teruo Muruyama thành lập vào tháng hai năm 1989
tại Bangkok theo sau cuộc Hội nghị khoáng đại gồm nhiều đại biểu Phật
giáo từ mười ba quốc gia như Úc, Mỹ, Canada, Ý, Ðức, Anh, Pháp,
Bangladesh, v.v. trên khắp thế giới về dự. Hiệp hội đã cung thỉnh Ðại
lão Hòa thượng người Thái Buddhadasa, Ðức Dalai Lama, người Tây Tạng,
Thiền sư người Việt Thích Nhất Hạnh và Hòa thượng Cambốt Maha Ghosananda
vào hàng chứng minh và cố vấn tinh thần cho Hội.
Chủ
trương của INEB là kết hợp với nhiều tổ chức Tôn giáo trên thế giới để
tổ chức các cuộc Hội Thảo về xã hội và tôn giáo, hầu đem lại lợi ích
thật sự cho xã hội; Cung cấp những tin tức mới về PG và hỗ trợ cho các
nước PG nghèo ở trong vùng Nam Á và Ðông Nam châu Á; Vận động các quốc
gia giảm bớt chính sách hà khắc của họ đối với tôn giáo và dân chủ; Bảo
trợ và tổ chức các buổi hội thảo xung quanh chủ đề giảm thiểu khổ đau
thông qua các sinh hoạt xã hội, chính trị, kinh tế, sinh thái v.v. với
mục tiêu tốt đẹp trên, từ 36 hội viên lúc ban đầu, đến nay INEB đã có
hơn 400 hội viên từ 33 quốc gia trên khắp thế giới. INEB còn cho phát
hành Nguyệt san Seeds of Peace (Hạt giống của Hòa bình) và mở một trang
báo điện tử khác để phổ biến chủ trương và giáo lý. Ðịa chỉ truy cập là: http://www.bpf.org/ineb.
Kết
luận
Phật
giáo đã đóng góp tích cực vào trong đời sống của người dân Thái không
những về mặt vật chất, kinh tế mà còn đi sâu vào đời sống tinh thần của
họ. Sự hiểu biết và thấm nhuần giáo lý nhân quả nghiệp báo và nhiều giáo
lý cốt lõi của PG, đã giúp cho người dân Thái biết sống và sống theo
khuôn khổ của Chánh pháp. Bản chất hiền hòa, từ ái, khiêm cung và nhã
nhặn của người dân Thái đã thể hiện một phần nào đó từ sự thực hành đạo
lý của họ.
Sự
thừa nhận và tán dương PG vai trò của nó trong xã hội Thái là một điều
cần thiết và không cường điệu để nói lên điều ấy. Thực vậy, Phật giáo đã
ăn sâu vào lòng của dân tộc Thái, và đã có mặt trên khắp mọi ngã đường
của xứ sở này./.
Tổng hợp theo các tài liệu :
![]() |
Subscribe to:
Posts (Atom)