Search This Blog

Showing posts with label CÔNG BINH VNCH. Show all posts
Showing posts with label CÔNG BINH VNCH. Show all posts

Thursday, October 27, 2011

Chuyện Đời Quân Ngũ Của Một Người Lính Công Binh VNCH, 30-4:
Từ Nghĩa Trang Biên Hoa, Trường Sa Tới Dinh Độc Lập
Lê Đồng

nguồn : www.motgoctroi.com/.../stlc_qnmdnguoi.htm -
Sau những cuộc mật đàm, đi đêm giữa các cường quốc Mỹ - Trung Cộng, Nga Sô đưa tới việc ký kết hiệp định Paris ngày 27/1/1973. Đây cũng là lúc khóa 02/72 làm lễ ra trường Công Binh Quân Lực V.N.C.H. Ngôi trường này nằm trên một ngọn đồi thơ mộng theo đồ án kiến trúc của Pháp để lại mà phía sau trường đồi dốc thoai thoải hướng xuống dọc bờ sông có chiếc cầu bắc ngang dòng sông Phú Cường dẫn đường vào thị xã của tỉnh Bình Dương.
Sau lễ mãn khóa, cá nhân tôi được chuyển về liên đoàn 5 Công Binh kiến tạo ở thành Ông Năm Hóc Môn và điều động về Đại đội 541 Công Binh kiến tạo KBC 6322, trú đóng ở cầu Đồng Nai cạnh xa lộ Biên Hòa. Trách nhiệm chính của đơn vị là xây cất NGHĨA DŨNG ĐÀI ở Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa.
Chuyện Ngĩa Trang Quân Đội và Nghĩa Dũng Đài
Vào thời điểm đó công trường Nghĩa Dũng Đài đang ở vào giai đoạn khởi công, cơ giới đào đất, đóng cừ móng bê tông trụ đài chính và 4 trụ đỡ của vành khăn tang. Ngoài ra đại đội còn có sà lan hàng ngày khai thác cát dưới lòng sông Đồng Nai để cung cấp cát cho các đơn vị quân lực V.N.C.H có nhu cầu sử dụng.
Từ 1973-1974, hàng năm cứ đúng ngày 1 tháng 11 năm 1973 & 1974 Việt Nam Cộng Hòa đều có tổ chức lễ tưởng niệm "chiến sĩ trận vong." Buổi lễ được cử hành tại nghĩa trang quân đội Biên Hòa với sự tham dự của Tổng Thống Thiệu, thủ tướng Khiêm, Đại tướng Viên, chủ tịch quốc hội Cụ Huyền, Cụ Cố Lắm, Cố Đại Sứ Mỹ ông Bunker -sau đó là ông Martin- và ngoại giao đoàn tham dự.
Lần cuối cùng ngày 1/11/1974 sau khi làm lễ ở "Đền Tử Sĩ" đích thân Tổng Thống Thiệu cầm đuốc đốt dầu thô bừng cháy được lấy lên từ giàn khoan ngoài khơi vùng biển phía Nam. Các giếng dầu lúc đó được mang tên rất đẹp như, Hoa Hồng 9, Bạch Hổ, Mía, Dừa..... do các tổ hợp ngoại quốc đấu thầu, rồi phái đoàn lên xe đi về hướng Nghĩa- Dũng - Đài, và dừng lại đi bộ đến thắp nhang cầu nguyện trước mộ "chiến sĩ vô danh" và cắm nhang các phần mộ kế cận, cuối cùng nghe thuyết trình về công tác xây dựng, hoàn tất Nghĩa- Dũng- Đài trong lúc phu nhân của các vị lãnh đạo cũng đi từng ngôi mộ cắm nhang cho khu đối diện.
Đời binh nghiệp của tôi gắn liền với Đại Đội 541 Công Binh kiến tạo cho tới 12g trưa ngày 30/4/1975 thì tan hàng theo vận nước nổi trôi của miền Nam. Chưa đầy 48 giờ sau ngày tiến chiếm Saigon, quân đội Cộng Sản đã cho tàn phá Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hoà.
Tôi nhớ ngày 3/5/1975, từ sáng sớm sau khi không qua nổi làn sóng người "phe ta" tràn vào trình diện ở cổng trường Gia Long khép kín, tôi buồn chán lang thang đạp xe đạp lên thăm viếng Nghĩa trang quân đội Biên Hòa. Dọc đường xa lộ vắng vẻ thỉnh thoảng mới có vài chiếc molotova ngược xuôi và chạy chậm ngừng lại quan sát, nhanh chóng đưa những can xăng vào các nhà điểm bán xăng bên đường.
Qua khỏi con dốc của làng Đại Học Thủ Đức, trụ đài cao 43m đứng sừng sững giữa bầu trời và vành khăn tang vòng kính 43m, cao 1m2 bao quanh nằm chảy dài ngạo nghễ cùng với cổng Tam Quan & Đầu Tử Sĩ trong ánh nắng ban mai của thủơ ban đầu mất nước.
Đến nghĩa trang quân đội, tôi thấy tượng "Thương Tiếc" không còn uy nghi lẫm liệt ngồi trên bệ đá nữa mà đã bị cộng sản giật sập nằm bên vệ đường. Đầu tượng úp mặt quay về hướng Sài Gòn, chân ngóng về Biên Hòa và một cánh tay của tượng bị gãy lìa nằm cạnh đó. Hình ảnh ấy làm tôi thấy lòng mình chùng xuống. Chỉ còn biết hướng tầm mắt vào nghĩa trang nguyện cầu rồi lên xe đạp đi tới hậu cứ của đơn vị. Nơi đây đã hoàn toàn bị san bằng trên đường tiến quân của cộng sản vào Sài Gòn.
Sau khi từ trại cải tạo trở về, tôi đã âm thầm nhiều lần lên thăm viếng nghĩa trang Quân Đội. Sau khi đi định cư ở My trong một dịp về Quê Hương, tôi cũng đã trở lại vùng đất nơi an nghỉ của những người con yêu Tổ Quốc và tận mắt chứng kiến nhiều cảnh đổi thay. Nơi bệ đá của tượng Thương Tiếc ngày xưa nay đã có một hộ dân cư dựng lên nhà ở và là điểm vá ép vỏ xe các loại. Ngay ngã ba đầu đường dẫn vào nghĩa trang có bàn bán giải khát và nhang đèn.
Qua khỏi lối rẽ chạy vòng quanh Đền Tử Sĩ, Cộng Sản đã xây dựng nhà máy lọc nước Thuận An án ngữ ngay bên phải cổng Tam Quan của đường lộ chính dẫn tới Nghĩa Dũng Đài, do đó thân nhân tử sĩ vào viếng mộ bắt buộc chỉ còn hướng bên trái đi lại mà thôi. Suốt quãng lộ chính này, mặt đường toàn là đất đỏ của nhà máy gạch phơi dùng để sản xuất gạch, những con đường nhựa phụ chạy theo hình vòng cung của các lô đã bị hư hại 90%. Tất cả ống cống thoát nước giữa các giao điểm đường lộ hoàn toàn chẳng còn nữa, khiến nhiều đoạn sụp lở thành hố sâu. Thương tâm nhất là những phần mộ an táng xa phía sau gần khu Nông Mục Quân Đội cũ là vùng đất thấp chưa được lắp đặt mộ tiền chế cỏ lau sậy mọc cao và nước mưa năm tháng xoáy mòn chỉ còn trơ trọi mộ bia ngả nghiêng.
Tóm lại khung cảnh đổ nát và hoang tàn của nghĩa trang quân đội Biên Hòa mà không bút mực nào diễn tả hết được ý nghĩa.
Hôm nay, thêm một lần Tháng Tư, tôi lại thấy lòng mình chùng xuống như ngày nào, khi hồi tưởng đời quân ngũ từ 30 năm trước.
Công binh VNCH ra Trường Sa
Tháng 1/1974, Trung Cộng chiếm đóng công khai đảo Hoàng Sa. Để ngăn chận sự lấn chiếm những đảo còn lại của biển Đông, các đơn vị của Liên Đoàn 5 Công Binh kiến tạo được lệnh đưa các toán công binh ra quần đảo Trường Sa để xây cất các hạng mục công trình như dựng cột cờ, bia chủ quyền, nhà tiền chế, nhà để máy phát điện, nhà chưá bồn nước dư trữ....
Vào thời gian đó quần đảo Trường Sa gồm những đảo san hô như Thái Bình, Tại Tứ, Song Tử- Đông... rộng lớn trù phú và dân cư sinh sống trên đảo đông đúc thuộc quyền kiểm soát của Đài Loan và Phi Luật Tân, Đảo Nam -Yết do Việt Nam cộng Hòa đóng trên đảo đã thiết lập đài khí tượng thủy văn không có dân chúng cư ngụ. Những đảo san hô còn lại như Trường Sa, Sơn Ca, Sinh Tồn, Song -Tử -Tây, An Bằng hoàn toàn bỏ hoang chưa thuộc chủ quyền của quốc gia nào.
Trong chiến dịch được mang tên Trần Hưng Đạo 48, ngày 9/3/1974 lúc 1g30ph chiều, chiếc yểm trợ hạm Cần Thơ H.Q 801 do hải quân trung tá Nguyễn Duy Long làm hạm trưởng cùng với sở thủy đạo, người nhái hải quân và toán công binh của đại đội 541 CBKT gồm khoảng 400 binh sĩ, hạ sĩ quan do tôi làm trưởng toán rời bến Tân Cảng Sài Gòn để ra khơi trực chỉ đảo Trường Sa.
Sau 2 ngày hải hành tàu đến địa điểm bỏ neo ngoài khơi đảo và đoàn chúng tôi xuống ca nô vào quan sát vị trí chung quanh đảo. Đảo này diện tích 300 x 400m. Chúng tôi được chuẩn úy Giáo thuộc tiểu khu Bà Rịa& Phước Tuy là "chúa Đảo" thuyết trình cho biết trung đội địa phương quân của anh mới đổ bộ lên đảo cách đây vài ngày. Kế tiếp toán công binh của tôi bắt đầu đổ quân & di chuyển vật liệu lên đảo. qua một tháng nỗ lực xây dựng vì nhu cầu công trường nên tóan của chúng tôi được đơn vị bạn công binh thay thế trở về đất liền tiếp tục xây cất Nghĩa Dũng Đài và mỗi quân nhân được tưởng thưởng một Hải vụ bội tinh.
Ngày 15/4/1975 như để thăm dò lần cuối cùng thái độ của Hoa Kỳ trong cuộc chến tranh Việt Nam, Bắc Việt đã huy động tàu chiến, bộ binh tấn công đánh chiếm các hòn đảo của Trường Sa mà Mỹ đã không một lời lên tiếng phản ứng. Theo thiểu ý của tôi, nhìn lại dữ kiện lịch sử cận đại của các nước nhược tiểu là đồng minh với Hoa Kỳ đã rút ra được bài học: "Vì quyền lợi và ảnh hưởng chính trị của Mỹ ở trong nước cũng như trên chính trường quốc tế". Các vị Tổng Thống của cả 2 đảng Cộng Hòa & Dân Chủ phải hướng về chủ trương và đường lối quốc gia Hoa Kỳ theo từng giai đoạn diễn biến của thế giới. Trong tình hình lúc ấy, viễn ảnh một cuộc đối đầu giữa Hoa Kỳ và Trung Cộng tại biển đông ai cũng thấy là sẽ khó tránh khỏi bởi tiềm năng nguồn năng lượng vô tận dầu hỏa còn nằm sâu trong lòng biển Đông, hơn nữa đây còn là trục lộ hàng hải chính giao điểm của các quốc gia qua lại. Vậy mà Bắc Việt chiếm gọn Trường Sa, Mỹ không nói một tiếng. Chiến xa Bắc Việt còn ngần ngại gì mà không kéo nhau vào Saigon.
Những ngày cuối cùng của Dinh Độc Lập
Ngày 8/4/1975 Trung úy Nguyễn Thành Trung lái F5 ném bom làm Dinh Độc Lập bị hư hại Đại Sảnh Đường. Đại đội 541 CBKT lại tạm xa rời nghĩa trang quân đội để vào sửa chữa Dinh cho đến 6g chiều ngày 26/4/1975 là ngày công tác cuối cùng trong Dinh Độc Lập.
Tôi còn nhớ rất rõ, vào lúc 6 giờ chiều ngày 28/4/1975 phi trường Biên Hòa hoàn tất việc di tản. Những tiếng nổ và lửa cháy suốt đêm cả một vùng trời cho đến sáng 29/4/1975 Biên Hòa bỏ ngỏ, cacù đơn vị pháo binh 175ly & 155ly lần lượt kéo về lập phòng tuyến bên cầu Đồng Nai nòng súng trực xạ và dân chúng di tản lũ lượt từng đoàn đủ mọi phương tiện đi về Saigon.
Vào lúc 1g chiều ngày 25/4/1975 vị Trung úy của Dinh độc Lập mà tôi thường tiếp xúc hàng ngày đến bắt tay xã giao thăm hỏi trong ánh mắt không vui, ngỏ ý mượn 6 anh em binh sĩ để lên trên lầu vào phòng khiêng một tủ sắt nhỏ mang đi. Theo tôi đây là tài sản riêng tư quý giá của gia đình cố Tổng Thống Thiệu mang đi vào phút chót.
Từ ngày 26-4 là lúc các đơn vị Quân Lực V.N.C.H đóng chung quanh cầu Đồng Nai bị pháo kích đồng thời nhiều toán đặc công Cộng Sản xâm nhập đánh phá lưu thông. Xa lộ Biên Hòa gián đoạn từng hồi. Công Binh đã có kế hoạch đặt chất nổ phá sập tất cả các cây cầu huyết mạch dẫn vào Sài Gòn, nhưng rồi kế hoạch đã không được thi hành.
Trong mốc thời gian ngắn ngủi công tác ở Dinh Độc Lập, tôi cũng đã có dịp nhìn thấy Tổng thống Thiệu , cụ Phó Trần Văn Hương với gương mặt suy tư lo âu và mệt mỏi lẫn buồn bã cùng các vị chính khách và tướng lãnh hối hả tấp nập ra vào phòng họp Dinh để rồi cuối cùng " kẻ ra đi người ở lại" đưa tới đại họa nước mất nhà tan vào tay Cộng Sản.
Tạm kết: mong góp phần hoàn tất Nghĩa Dũng Đài
Trong thời chiến tranh các thế hệ nối tiếp của người lính công binh nói riêng và Quân lực V.N.C.H nói chung đã xây dựng lên biết bao công trình mà cho tới ngày hôm nay vẫn còn tồn tại trong phần đất miền Nam như Dinh Độc Lập, Nghĩa trang Quân Đội Biên Hòa, bệnh viện Vì Dân, Đài Bảo Tháp Hoa Sen nằm cạnh nhà hát Hòa Bình Q10 Sài Gòn, cầu bê tông tiền áp Đà Rằng, các trục quốc lộ....
Nhớ lại chặng đường tuổi trẻ trôi nhanh với biết bao kỷ niệm thăng trầm đắng cay trong cuộc đời mà những bạn công binh cùng trang lứa như kiến trúc sư Thiếu úy Vũ Văn Dũng chỉ huy bắc chiếc cầu cho mặt trận An Điền & Rạch Bắp của quân đoàn III đã anh dũng hy sinh bên chiếc cầu nối nhịp dang dở, cán sự công chánh thiếu úy Trần Văn Sơn vĩnh viễn nằm lại vùng đất cao nguyên gió lạnh mưa mùa trên mặt trận Kon Tum.... Và biết bao anh hùng vô danh bất tử của Quân Dân & Cán chính V.N.C.H.
Giờ đây tôi chỉ ước nguyện mong ngày nào đó còn chút sức khỏe để đích thân về lại "NGHĨA TRANG QUỐC GIA BIÊN HÒA" góp một bàn tay hoàn tất công trình dang dở NGHĨA DŨNG ĐÀI và xây dựng "BIA TƯỞNG NIỆM" mồ chôn tập thể tử sĩ từ trần vào giờ thứ 25 của miền Nam nước VIỆT.
LÊ ĐỒNG
Mùa Q
uốc Nạn 2005
NGƯỜI LÍNH CÔNG BINH CHIẾN ĐẤU PHẠM VĨNH NINH .

web247.78.cyhost.ch/vnch/?p=3614 -

Xin tưởng niệm tất cả anh linh của các chiến sĩ Công Binh VNCH vị quốc vong thân.
Đặc biệt tưởng niệm anh linh Cố Thiếu Úy Phạm Vĩnh Ninh CBCĐ VNCH Kt69.
Kính tặng quân phụ Phạm Đăng Lân , người lính già kỳ cựu của ngành Công Binh.
Mến tặng tất cả chiến sỉ Công Binh VNCH , đặc biệt các chiến sĩ xuất thân từ ĐH Kiến Trúc viện Đại Học Sàigòn.
Cám ơn các anh Nguyễn Thái Hòa Kt 66 và Nguyễn Hòang Phố Kt 69 đã khích lệ và cung cấp tài liệu giúp tôi hòan thành bài viết này.

Sơ lược về sự thành lập và cơ cấu tổ chức của binh chủng CÔNG BINH quân lực Việt Nam Cộng Hòa Vào năm 1951 , ngành Công Binh được hình thành chỉ với 2 Đại Đội Công Binh Chiến Đấu mà tên gọi được đặt theo quân khu trực thuộc . Đó là Đại đội 2 và 3 . Các Đại đội 4, 1, 5 và 6 đã được thành lập tiếp nối sau đó.Vào thời điểm này , tầm hoạt động của Công Binh Việt Nam còn nằm trong phạm vi của Công Binh Pháp.
Theo thời gian và thuận theo đà phát triển của quân vụ , ngành Công Binh đã khuếch trương từ cấp Đại Đội lên Tiểu Đòan rồi Liên Đòan. Năm 1964 Bộ chỉ huy binh chủng Công Binh chính thức mang tên Cục Công Binh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.
Liên Đòan Công Binh Việt Nam Cộng Hòa , vốn là một Lực lượng Tổng trừ bị , được phân chia làm 4 loại chính :
1. Liên Đòan Công binh Chiến Đấu ( LĐCBCĐ ) được trang bị nhẹ và di động hơn so với Liên Đòan Công binh Kiến Tạo . Nhiệm vụ của họ là hổ trợ cho Quân Đòan / Quân Khu tái thiết và phục hồi những “hệ thống giao thông chiến lược“ nhằm mục đích bảo đảm an tòan và thông suốt cho sự di chuyển , tiếp liệu của quân lính cũng như giao thông và phân phối thực phẩm của dân chúng . Được gọi là “Hệ thống giao thông chiến lược“ gồm tất cả các đưòng và cầu thuộc Quốc lộ 1,2,3,4, Liên tỉnh lộ ,các bến phà , các phi trường, các đài Radar, Truyền Tin v.v. Nhiệm vụ này càng có tính cách cấp thiết hơn tại những nút giao thông quan trọng thí dụ như các bến phà miền Tây. LĐCBCĐ chịu sự điều động chánh của Quân Đòan.
2. Liên Đòan Công binh Kiến Tạo ( LĐCBKT ) được trang bị với cơ gìới hạng nặng, yểm trợ cho Quân Đòan trong việc xây dựng những hệ thông giao thông chíến lược nêu trên với tầm vóc quy mô hơn. Ngòai ra còn đảm nhiệm xây cất hoặc sửa chữa những căn cứ,cơ sở quân sự, khu gia binh. LĐCBKT chịu sự điều động chánh của Cục Công Binh .
Cả 2 Liên Đòan này còn làm công tác dân sự vụ như xây trường học, cơ sở tôn giáo.
3. Công Binh Sư Đòan được trang bị nhẹ , chỉ ở tầm vóc Tiểu đòan , do Sư Đòan điều động để yểm trợ mọi công tác xây dựng và tái thiết trong lãnh thổ trách nhiệm.
4. Sở Tạo Tác không sở hữu quân lính và cơ giới , có nhiệm vụ thiết kế và kiểm soát các chương trình xây dựng trong Quân Khu.
§§§§§§§§§§§§§§§§§§§§§§§§§§§§§§§§§§

…Tôi vẫn còn nhớ rõ hình ảnh và giọng nói của anh Ninh như vừa gặp anh ngày hôm qua. Nưóc da đen không hiểu vì bẩm sinh hay vì dầm nắng khi phải lái xe Honda mỗi ngày từ Bình Dương lên Sàigòn để đi học ở trưòng Kiến Trúc. Anh ăn chay trường, lời lẽ rất thành thật mộc mạc, không hàm ý, không thủ cẳng, rộng rãi, vị tha. Vào năm 1970 hay 1971, khi tôi và anh Nguyễn hữu Dũng (KT 69) lên Bình Dương, anh dẫn chúng tôi đến cái căn phố nhỏ làm nhà in của Ba anh và qua thăm cái vườn trái cây của gia đình anh ở phía bên kia cầu Phú Cường. Đi trên cây cầu beton rất cao mới xây ấy, chúng tôi thấy ở phía dưới cầu nhiều dẫy nhà to lớn xây cất từ thời Pháp với cách kiến trúc giống như trường Văn Khoa hay là bệnh Viện Grall. Đó là trường Công Binh mà tại nơi đây nhiều anh em Kiến Trúc đã và sẽ được thụ huấn về phóng cầu, đặt gở mìn bẫy, xử dụng cơ giới.
Mùa hè 1972, nhiều anh em Kiến Trúc gia nhập Quân Đội do lệnh tổng động viên. Khi đi quân trường Đồng Đế, Anh Ninh ăn mặc những bộ quân phục phát sẳn te tua và chỉ sống nhờ ăn 2 bửa trưòng kỳ menu độc nhất. Vì ăn chay không thể ăn món cá mối chiên bột nên anh chỉ ăn độc nhất món canh bí. Sau khi thụ huấn xong ở trưòng Công Binh, anh phục vụ Liên Đoàn 20 Công Binh Chiến Đấu tại địa bàn Pleiku, Kontum thuộc Vùng 2 Chiến Thuật. Cùng khoá với anh Ninh có nhiều anh em KT khác như anh Đổ bá Khoa-KT66 (Phòng 3 Bộ Tham-Mưu Liên Đoàn), anh Nguyễn văn Hồng-KT68 (TĐ 201), Nguyễn Bữu Hữu Chí-KT66 (TĐ 202), anh Nguyễn Thái Hoà-KT66 (Ban 3/TĐ 203), anh Huỳnh Hiếu Thuận-KT68 (ĐĐA/TĐ 203), anh Nguyễn gia Thắng-KT69 (ĐĐ Biệt Lập Câu Nổi 217). ….
Vào chuyện …
Có những người lính , mà phần đóng góp và sự hy sinh của họ trong cuộc chiến tranh Ý-Thức- Hệ Quốc Cộng , bảo vệ nền Tự Do dân chủ cho tổ quốc Việt Nam Cộng Hòa trước 30.4.1975 không nhỏ. Lúc thì phải san bằng dẹp bỏ những ụ mìn làm ngăn trở việc giao thông hay quân vận, khi thì xây dựng nhanh những chiếc cầu nổi để thay thế chiếc cầu đã bị giựt sập bởi lũ đặc công Cộng Sản , lắm khi tùy theo chiến thuật quốc phòng phải phá hủy căn cứ để ngăn chặn quân địch v.v…… Đó là chức trách đặc thù của các chiến sĩ thuộc binh chủng Công Binh , điển hình là Lực Lượng Công Binh Chiến Đấu. Họ dấn thân , lao vào nơi nguy hiểm để thám sát và xây dựng , nói một cách khác , lắm khi họ đã dùng máu mình để mở đường cho chiến hữu các cấp thuộc mọi binh chủng bạn tiến quân, tái lập giao thông cho dân chúng. Tóm lại , tất cả Quân Dân Cán Chính đều cần tới họ, nhưng hầu như hình bóng những anh chiến sĩ này chưa hề thấp thoáng trong các bài viết hay ca khúc nào nhằm mục đích vinh danh họ.
Với vai trò tiên phuông như thám sát, mở đường, gỡ mìn, bắt lại cây cầu vừa bị giật sập v.v.…người chiến sĩ Công Binh , đăc biệt là Công Binh chiến đấu, đã sát cánh tác chiến cùng các đơn vị bạn. Họ thật sự đem “thân mình ra trải đường“ cho chiến hữu tiến quân.
Trong số các người lính Công Binh này là những chàng Kiến Trúc sư trẻ, sau khi xếp bút nghiên, giá vẽ , họ lên đường tòng quân, làm tròn bổn phận nam nhi đối với non sông tổ quốc, chung vai góp sức cùng các chiến hữu trong Lục Quân của Quân Lực VNCH để bảo vệ và gìn giữ cho lá cờ vàng ba sọc đỏ được luôn tung bay phất phới giữa nền trời xanh Tự Do Dân Chủ của Việt Nam Cộng Hòa.
Như các binh chủng khác, lực lượng Công Binh Chiến Đấu cũng có những hy sinh cao ngút tận mây xanh , để lại bao thương tiếc cho đồng đội, đồng môn , thân hữu và gia quyến…Một trong những hy sinh bi hùng ấy là Cố Thiếu Úy Phạm Vĩnh Ninh. Anh Phạm Vĩnh Ninh đã tử trận vào giữa tháng 3/1975 bên bờ sông Ba (còn gọi là sông Đà Rằng hay sông Tuy Hòa) thuộc tỉnh Tuy Hòa .
Mùa hè đỏ lửa 1972, Cộng Sản đã tạo áp lực tấn công dồn dập trên các chiến trường An Lộc , Quảng Trị , Kontum . Để đáp ứng tình thế sôi bỏng của chiến trường, tại miền Nam Việt Nam, luật Tổng Động Viên được ban hành. Chàng sinh viên năm chót của Đại học Kiến Trúc, Phạm Vĩnh Ninh (KT69) đã cùng hàng ngàn , hàng vạn các sinh viên thuộc mọi phân khoa khác nhau của Viện Đại học Sàigòn đáp lời sông núi , cởi bỏ mảnh áo thư sinh , chấp nhận vì tổ quốc , khoác lên mình màu áo lính , sống cuộc đời quân ngủ . Anh đã thụ huấn tại Quân trường Đồng Đế, Khóa 2 Sĩ Quan Trừ Bị vào năm 1972/ 1973 và tiếp đó được đào tạo tại Trường Công Binh Bình Dương ( khóa 273 năm 1973) . Sau khi ra trường , anh về phục vụ tại TĐ 202, Liên Đoàn 20 CBCĐ , Quân Đoàn 2, vùng II Chiến thuật , căn cứ đóng tại Hàm Rồng, Pleiku.
Tháng 3 /1975 là khoảng thời gian đồng minhđangtháo chạy, tạo bi sử dầu sôi lửa bỏng , mở màn cho giai đoạn cuối cùng của cuộc chiến tranh Ý- Thức – Hệ Quốc Cộng tại miền Nam Việt Nam. Sau khi Ban Mê Thuộc và Darlac thất thủ, cuộc rút quân và di tản dân chúng rời bỏ miền cao nguyên của vùng II Chiến thuật trên Liên tỉnh lộ 7B xảy ra vô cùng hỗn loạn và vạn phần nguy hiểm. Phần thì bị Cộng Sản tấn công và pháo kích bừa bãi, phần thì dân chúng mất bình tỉnh, buông chạy trong tình trạng hoang mang, sợ hải và kinh hoàng vì mọi việc xảy ra quá đột ngột, đã làm cho sự giao thông trì trệ đến mức độ hoàn toàn tắc nghẽn và ảnh hưởng trầm trọng đến chiến thuật hành quân và rút quân trong an toàn. Tất cả những dữ kiện trên đã tạo nên một tình huống vô cùng đen tối và bi thảm trên Liên tỉnh lộ số 7B từ cao nguyên Pleiku xuống miền duyên hải Tuy Hòa.
Chính vào thời điểm này, đơn vị của cố Thiếu úy Phạm Vĩnh Ninh được giao phó nhiệm vụ thám sát và mở đường cho chiền hữu các đơn vị bạn cũng như dân chúng rút từ Pleiku qua Phú Bổn để đến Tuy Hòa. Đọan đường lịch sử này ghi lại trong lịch sử triệt thoái khỏi Cao nguyên tháng 3/ 1975 những hình ảnh bi thương thấm đẫm máu của rất nhiều Dân Quân Việt Nam Cộng Hòa, trong đó có máu và xương thịt của Cố Thiếu Úy Phạm Vĩnh Ninh.
Những người còn lại hôm nay đã thắc mắc và hỏi nhau rằng …”Nó qua được phía bên sông rồi còn quay trở lại làm chi?” Đúng, anh đã thực sự qua được bờ bến “khá an toàn”, mà nếu anh là một người úy tử tham sanh thường tình thì có lẽ anh đã bình yên về tới hậu cứ. Người ta làm sao có thể hiểu được cái tinh thần trách nhiệm, danh dự và đức độ chỉ huy của vị thiếu úy trẻ tuổi gan dạ và đầy nhiệt huyết này !!!
Thuộc cấp của anh Ninh đã thuật lại, phần lớn đơn vị anh Ninh đã qua được bên kia bờ Sông Ba ( Sông Đà Rằng ), có nghĩa là có thể rút an tòan về Tuy Hòa. Trưóc đó, anh có gọi trực thăng đáp xuống để tải thương một người bạn đồng môn Kiến Trúc, anh Đồng quang Việt (KT69) thuộc ĐĐ643/TĐ64/LĐ6CBKT.
Như trên đã viết , lẽ ra , anh có thể cùng về hậu cứ bằng trực thăng tải thương chung với người bạn thương binh này , nhưng anh đã không làm vậy. Danh dự và trách nhiệm của cấp sĩ quan chỉ huy đã không cho phép anh làm vậy.
Sau khi chiếc trực thăng tải thương cất cánh , anh đã đơn thân độc mã quay ngược lại bờ sông Ba để giúp một số ít các đồng đội binh sĩ thuộc cấp còn đang bị kẹt lại ở phiá sau . Nhưng đau đớn thay , anh vĩnh viển không còn cơ hội thực hiện điều mong ước đó nữa, vì sau khi chỉ tìm gặp được vài thuộc cấp thất lạc, anh đang cố gắng truy tìm những người khác thì một hỏa tiển pháo kích đã rơi đúng vào xe của anh, kết thúc mộng ước giúp đỡ chiến hữu thuộc cấp của người chiến sĩ Công Binh ưu tú đó.
Các binh sĩ thuộc cấp của anh không nở bỏ mặc xác người chỉ huy đã vì họ mà hy sinh, nên đã bằng mọi giá, nhất quyết mang thi hài của anh về cho gia đình như một cử chỉ cám ơn mà họ còn có thể làm được cho anh lần chót.
Trời không chìu lòng người nên thuộc cấp của anh cũng đành đọan mà buông trôi nghĩa cử ân tình này !!! . Oan nghiệt và trớ trêu thay, chiếc xe Jeep chở xác người lính trẻ Phạm Vĩnh Ninh lại trúng hỏa tiển pháo kích thêm lần thứ hai .Tất cả máu, xương, niềm uất nghẹn , nỗi tủi hờn của anh và chiến hữu trên xe đã tan tành và tung cao lên tầng mây xanh thẳm như để hỏi rằng, trời già sao ông lại nỡ óai ăm tạo cảnh bi ai …người chết 2 lần ,thịt da nát tan !!!
Buổi tối trước ngày tử trận , anh Ninh đã nhìn lên trời và nói với người chiến hữu mà cũng là đồng môn của mình là anh Nguyễn gia Thắng (KT69): ”Mặt trăng đêm nay sao có màu đỏ như máu vậy ?” ( Anh Thắng được trực thăng vận đến Sông Ba để phóng cầu nổi nên đã gặp anh Ninh tại đây ). Phải chăng đây là một điềm báo trước nên anh thấy Trăng màu đỏ, đỏ như máu của anh ngày hôm sau , như máu của bao nhiêu chiến hữu đã đổ ra để bảo vệ miền Nam Việt Nam trước sự xâm lăng tàn bạo cũa Cộng Sản miền Bắc .
35 năm đã trôi đi kể từ khi cuộc tang thương dâu biển xảy tới cho dân miền Nam. Những uất hận , khổ đau đã được ghi lại rất nhìều trên thơ văn , ca khúc . Nhưng hình như chưa ai ghi lại nỗi niềm đau khổ của chính người đã hy sinh nằm xuống , như anh Phạm Vĩnh Ninh , khi nhìn thấy cảnh phản bội quê hương của những chiến hữu đã từng sát cánh chiến đấu bên họ , hoặc của những người hậu phương mà họ đã trả giá bằng mạng sống của chính mình để bảo vệ an tòan . Chắc phải là vô cùng tức tưởi , và thật là oan khiên ?
Không đâu, bên cạnh những kẻ vô lương tâm ấy vẫn còn có chúng tôi, vẫn còn những tâm hồn ưu tư nặng gánh nước nhà . Chúng tôi không quên ơn các Dân Quân Cán Chính đã xã thân cho non sông Tổ-Quốc . Riêng với anh Ninh, những người bạn đồng môn không quên anh. Bằng chứng là dù hôm nay , Bình Dương quê của anh đã hoàn toàn thay đổi, vô cùng xa lạ so với ngày cũ , dù trong tay không biết địa chỉ, chỉ dựa vào những chi tiết mù mờ còn vương lại trong ký ức của những ngày tháng xa xưa , mà họ vẫn tìm ra được gia đình anh, nơi mà bà Mẹ già trên 90 hiu hắt luôn nhớ thương đứa con trai vì yêu quê-hương, Tổ-Quốc Việt-Nam từng dấn thân trong lửa đạn và không được trở về nhà, dù là chỉ trở về trong cái … hòm gỗ cài hoa.
Sau 35 năm , lần đầu tiên gia đình đồng môn Kiến Trúc mới thắp được cho anh nén tâm hương , thăm hỏi và cầu mong anh yên tâm nhắm mắt .
Ai có thể cho đó là sự tình cờ? Muôn vạn lần phải là do sự dẵn dắt của anh, chúng tôi tin như vậy, và với niềm tin này, chúng tôi cương quyết, cho tới hơi thở cuối của mình , sẽ vinh danh , làm sáng tỏ gương hy sinh của các anh hùng tử sỉ Quân Dân Cán Chính Miền Nam Việt Nam đã vị quốc vong thân. Những giọt máu vì sao đã đổ? những mãnh đời bởi đâu chịu tàn ph ? những cuộc sống vì ai bị dày dò trong lao tù Cộng sản để hôm nay mang bạo bệnh? Những điều này phải được giải bày thật rõ cho thế hệ con cháu tiếp nối, giúp cho các cháu hiểu đúng sự thật của cuộc chiến tranh Ý- Thức- Hệ, vạch rõ lằn ranh Quốc Cộng. Đó chính là bổn phận mà chúng tôi cần phải làm để trả ơn tất cả các vị anh hùng vị quốc vong thân và tàn phế, trong đó có anh, người chiến sỹ Công Binh Chiến Đấu can trường: Cố thiếu Úy Phạm Vĩnh Ninh (KT69).
LNTH