Search This Blog

Thursday, July 12, 2012

Chìa khóa bất tử trong tay con giun

Vietnamnet – 8/3/2012.    09:00
 Khoa Học
Các nhà khoa học Anh đã nghiên cứu loài giun dẹp nhằm tìm kiếm chìa khóa mang đến sự bất tử cho con người. Loài giun này có khả năng tái sinh lạ lùng để vượt qua sự lão hóa.

Một công trình nghiên cứu đăng trên Tạp chí Proceedings of the National Academy of Sciences cho biết, loài giun dẹt có thể duy trì liên tục độ dài của telomer bao gồm các ADN. Một trong những giả thuyết phổ biến nhất về sự lão hóa của các sinh vật nói rằng nguyên nhân của hiện tượng này là vì phần cuối của nhiễm sắc thể tế bào – gọi là telomer – cứ bị ngắn dần lại. Tới khi nào chúng biến mất hoàn toàn thì tế bào sẽ chết. Chính telomer xác định số lượng các phân chia tế bào trong cuộc đời, chịu trách nhiệm về sự bảo quản bộ gen và bảo vệ nhiễm sắc thể khỏi tác động của các yếu tố tiêu cực.
Từ lâu, các nhà khoa học đã rất chú ý đến giun dẹp vì khả năng tái sinh phi thường của chúng. Họ tìm hiểu cả 2 loại giun: loại sinh sản thông qua giới tính (sinh sản hữu tính) và loại sinh sản bằng cách phân chia (sinh sản vô tính ví dụ khi bị cắt làm đôi chúng sẽ biến thành 2 con giun mới).
Ông Aziz Abubaker, Trưởng nhóm nghiên cứu Trường ĐH Nottingham nói: “Hiện chúng tôi đang tìm cách giải thích vì sao mà những con vật này không bao giờ chết tự nhiên” thông qua 2 loại giun trên.
Cả 2 loại đều có khả năng khôi phục các cơ, da, nội tạng, thần kinh. Song loại giun sinh sản vô tính có ưu điểm hơn ở chỗ chúng có thể khôi phục dự trữ loại men (ferment) then chốt, có khả năng làm nên sự bất tử.
Những công trình nghiên cứu mang đến cho các tác giả giải Nobel Y học năm 2009 đã chứng minh rằng, hoạt tính của telomer phụ thuộc vào men telomeraz. Trong đa số các sinh vật sinh sản bằng phương pháp hữu tính, men này tách ra ở giai đoạn phát triển đầu tiên. Ông Abubaker cũng phát hiện ra là lượng men này trong cơ thể những con giun dẹp sinh sản vô tính tăng lên rất rõ rệt trong giai đoạn tái sinh.
Giáo sư Douglas Kell – Chủ tịch Hội đồng nghiên cứu khoa học về Công nghệ sinh học nhận định, kết quả của nghiên cứu mới là “vô cùng hấp dẫn”. Chúng đã đóng góp rất lớn vào những hiểu biết cơ bản về một số quá trình liên quan đến sự già nua của con người, điều chẳng mấy ai thích thú.
Bảo Châu (utro.ru)


  Khoa Học             
      Chinh phục Sao Hỏa thành bại là nhờ giun
Cập nhật: 01/12/2011 – 15:11 – Nguồn: VietNamNet.vn
http://www.vietnamnet.vn/vn/khoa-hoc/50675/chinh-phuc-sao-hoa-thanh-bai-la-nho…giun.html
Loài vật bé nhỏ, yếu ớt này lại đang nắm trong tay chìa khóa để con người hóa giải bí ẩn của Hành tinh đỏ.
Các nhà khoa học đang nín thở theo dõi sự phát triển và sinh sản qua 12 thế hệ của một loại giun có tên Caenorhabditis (tức C.elegans) trên trạm vũ trụ ISS. Họ hy vọng việc nghiên cứu những con giun sinh trưởng trong môi trường không gian này có thể giúp con người đương đầu với những nguy cơ và sự gian khổ của một hành trình kéo dài từ Trái đất lên sao Hỏa.
Chia sẻ trên Space.com, trưởng nhóm nghiên cứu – Nathaniel Szewczyk của Đại học Nottingham (Anh) cho biết từ lâu, khoa học đã biết được giun có thể phát triển và sinh sản trong không gian. Quy trình này có thể diễn ra rất dài, trải qua nhiều đời giun và con người có thể theo dõi “sức khỏe” của những con giun mới từ mặt đất.
Do đó, sâu C.elegans là một giải pháp rẻ mà hiệu quả để khám phá, nghiên cứu những tác động sinh học mà một chuyến du hành không gian dài hơi có thể gây ra cho sinh vật. Trên thực tế, loài giun này đã là đối tượng nghiên cứu quen thuộc của giới sinh học từ nhiều năm nay. Đơn cử như năm 1998, giun C.elegans là động vật đa bào đầu tiên có bản đồ gene được xây dựng hoàn chỉnh.
Theo ông Szewczyk, giun C.elegans có khoảng 20.000 gene mã protein, gần bằng con người (khoảng 23.000 gene). Hơn nữa, hệ gene của người và giun C.elegans cũng có rất nhiều điểm tương đồng, chồng chéo, với chức năng nhiệm vụ giống nhau.
Nhóm của ông đã gửi 4000 con giun C.elegans lên trạm ISS theo tàu không gian Discovery STS-116, được phóng vào tháng 12/2006. Trong ba tháng kế đó, đàn giun vẫn tăng trưởng và sản sinh bình thường bất chấp môi trường phi trọng lực.
Các nhà nghiên cứu tin rằng, việc nghiên cứu kỹ hơn về sự sinh trưởng, sinh sản của giun C.elegans sẽ giúp con người khắc phục một số thử thách chính trong tiến trình chinh phục sao Hỏa như thoái hóa cơ bắp, nhiễm xạ….
“Dù có vẻ bất ngờ nhưng những thay đổi về mặt sinh học xảy ra trong chuyến du hành ở người và giun là khá giống nhau”, ông Szewczyk khẳng định.
Trọng Cầm

THẦN DƯỢC CỨU MỆNH
 Ông Nguyễn An Định, cộng tác viên của báo Long An, hiện nghỉ hưu tại TP. HCM có tấm lòng thiết tha với vốn quý y học cổ truyền, lại thêm mối cảm tình với nghề y trong gia tộc (ông là trưởng nam của nhà ái quốc Nguyễn An Ninh) từng có lúc hành nghề y dược.

Có quyển sách thuốc nam in đầu thế kỷ 20 mang tên “Thần dược cứu mệnh” giới thiệu một bài thuốc thần “Cứu người sau 4 khắc”. Trong quyển 200 bài thuốc quý của ông Lê Văn Tĩnh – Sa Đéc in khoảng năm 1940 cũng có một bài giống y như vậy đề là “ôn dịch và các bệnh nan y – công hiệu như thần, bệnh lui sau 60 phút.
Quyển “Thần dược cứu mệnh” mở đầu bằng câu: “Con người dẫm trên thuốc thần mà không biết, nên vẫn chết”. Vị thuốc thần đó chính là vị thuốc bắc có tên “Địa Long” – con rồng trong đất. Ở Trung Quốc và Việt Nam, vị Địa Long có mặt trong nhiều thang thuốc trị bệnh hiểm nghèo hoặc để cấp cứu người sắp chết. Nhân dân Hàn Quốc có thói quen ăn cháo Địa Long trước khi ngủ để tẩm bổ và để trị bá bệnh. Đêm đêm, cháo Địa Long có bán tại các thị trấn và ngay cả ở thủ đô. Vậy Địa Long là gì? Nó chính là con trùn đất, loại có mầu sẫm đen, ánh xanh ở cổ, to bằng đầu đũa hoặc to hơn, khi đào trúng, nó không giẫy giụa lại co thành một búi tròn nằm im.
“Thần dược cứu mệnh” phân tích tính dược của trùn đất cho rằng nó có khả năng làm dai mạch máu và dây thần kinh, nối liền các chỗ dây thần kinh bị đứt, các mạch máu bị đứt rách, phục hồi sư sống cho các tế bào đã bị hoại tử, tách ra và đào thải các tế bào đã chết thối, hết phương phục hồi, vực dậy vô cùng nhanh chóng sức chống trả bệnh tật của con người. Ngày nay gọi là sức miễn dịch của cơ thể. Cho nên chỉ sau 60 phút bệnh phải lui, mọi hiện tượng lâm sàng đều biến mất. Do đó, Địa Long được dùng và công hiệu rất nhanh chóng trong các trường hợp: Cửu khiếu xuất huyết, ngũ tạng lục phủ xuất huyết, não bộ xuất huyết, hôn mê bất tỉnh kéo dài nhiều ngày, phù thận, phù gan, phù toàn thân, đột ngột phát điên không rõ nguyên do có sốt hoặc không sốt, bí đại tiểu tiện, bí trung tiện, bụng báng, chướng nước, “mắc đẳng dưới” (bạch đới nặng, ngày đêm đáy quần ướt sũng, hôi hám, người ốm tong, xanh xao)….
Lúc nhỏ tôi rất mê ngành y dược. Các sách chữ Pháp dành cho các y, bác sĩ nghiên cứu kỹ về nhi khoa, sản khoa, đa khoa, giải phẫu,….đọc rất khó hiểu và rất đắt tiền, tôi cùng dám mua để nghiền ngẫm. Hai quyển sách thuốc “Thần dược cứu mệnh” và “Hai trăm bài thuốc quí” tôi coi như vàng ngọc. Đi kháng chiến, hai quyển đó nằm ở đáy ba lô tôi, theo tôi suốt 9 năm, giúp tôi trị bệnh cứu người. Chỉ riêng năm 1953 và nửa đầu năm 1954, tôi đã cứu gần trăm người, coi như giành giật lại từ tay thần chết. Trong cuộc giành giật đó, có lần tôi đã chạm trán cả với một vị danh y mà trước đó các nhà điền chủ lớn ở miệt Cần Thơ, Rạch Giá, Sóc Trăng, Bạc Liêu thường đưa xe hơi hoặc ghe máy đến tận nhà để rước ông. Năm đó ở vùng giáp 4 tỉnh này, có một đợt dịch bệnh, phần lớn bệnh nhân là các cháu nhỏ từ 9 – 10 tuổi đến 15 – 17 tuổi, đa số là gái, các cháu trai bà người lớn ít bị hơn. Hiện tượng là xuất huyết nội tạng, xuất huyết cửu khiếu, xuất huyết dưới da (nổi vệt đỏ bầm tím, xanh đen khắp người), hôn mê bất tỉnh, nằm im như xác chết suốt bẩy ngày, có khi lâu hơn, mạch đã lạc không bắt được, hơi thở rất yếu, khó nhận thấy, da tái xanh, tay chân lạnh ngắt (nhưng vẫn còn mềm dịu, nếu cứng đơ thì đã bị đem chôn rồi). Lần đó cháu gái hôn mê đã 8 ngày, mình đầy các vết bầm tím. Gia đình đã rước được vị danh y nổi tiếng nói trên, nhưng ông đến song lại từ chối không trị bệnh cho cháu, chỉ vì trong số 30 – 40 vết bầm đen trên da cháu có một vệt đen kít to bằng đầu ngón tay nằm đúng giữa hai đầu lông mày. Ông cho đó là điềm báo không thể cứu sống. Sợ mất uy tín thầy nên ông không hốt thuốc. Tình cờ tôi đến, thấy má cháu đang quỳ lạy van xin ông cứu cháu mà ông một mực chối từ. Nghe mạch tại tim thấy còn tiếng thoi thóp rất yếu, tôi nói:
- Thưa thầy, thầy quyết bỏ thì con xin phép thầy cho con cứu cháu.
- Em mà cứu được hả? Có thấy vệt đen ngay huyệt Tam tinh không mà em liều mạng vậy? Tôi hỏi em: Sau khi em đổ thuốc thì bao lau cháu tỉnh lại? Em nói được tôi sẽ để cho em đổ thuốc.
- Thưa thầy, bài thuốc của con, cháu uống xong chỉ độ 63 – 65 phút sau cháu sẽ mở mắt.
Thầy trợn tròn mắt, đỏ mặt tía tai, lườm tôi rồi quát:
- Chủ nhà đâu, đem cho tôi cái đồng hồ bàn. Ông dằn mạnh cái đồng hồ lên bàn rồi nói: Được rồi! Có đồng hồ đó. Tôi ở lại chờ coi cháu nhỏ tỉnh  dậy.
Có kinh nghiệm cả trăm lần rồi, tôi rất tin ở bài thuốc. Tôi đi nấu rồi cậy răng đổ cho cháu uống. Quả nhiên, tới phút 63, cháu mở mắt, đến phút 65, cháu đòi đỡ ngồi dậy, đòi uống nước ăn cháo, đòi cho đi tiêu, tiểu. Tiếng cháu rất yếu, hai mắt cháu toàn lòng trắng, không thấy tý lòng đen nào nhưng tay chân  đã ấm, da hết tái xanh. Rõ ràng cháu đã sống lại.
Ông thầy thuốc với hai tay lên đầu, lột khăn đóng xuống chắp trước ngực, nói:
- Lúc nãy em kêu tôi bằng thầy, bây giờ tôi phải lạy em ba lạy mà kêu em bằng thầy. Xin thầy thông cảm cho vì thầy trẻ quá, nhỏ hơn con tôi nhiều, do đó tôi không quỳ lạy sợ tổn thọ cho thầy, tôi chỉ xin xá đủ ba xá thay cho ba lạy.
Nói xong ông trịnh trọng xá tôi ba xá, đầu cúi sâu thật nghiêm túc. Sau đó ông xin tôi bài thuốc. Năm đó, ngoài các hiện tượng hôn mê sâu nhiều ngày, xuất huyết dưới da, xuất huyết cửu khiếu, xuất huyết nội tạng, xuất huyết não, còn có nhiều ca bệnh khác. Bà nọ phát điên đột ngột đã 4 – 5 ngày. Phải vất vả lắm mới đổ được thuốc, cũng hơn 60 phút bà khỏi hẳn. Ông kia hơn 90 tuổi, cảm gió nằm im sủi bọt mép, mắt trật thị, tay chân lạnh ngắt, lấy móc tai đâm dưới móng 10 ngón tay mút không ra tý máu, máu đã đông. Khi tôi cạy răng đổ thuốc, còn có người nói sau lưng tôi:
- Thuốc hay thì trị được bệnh chứ cãi làm sau được mệnh của Trời. Ông đã trên 90 tuổi rồi còn gì. Cứu sao được mà cứu.
Cuối năm 1969, ở Hà Nội, có đợt dịch gọi là “Sốt xuất huyết” được xác định xuất hiện lần đầu tiên ở nước ta. Các cháu nhỏ chết la liệt, tại bệnh viện lớn, có ngày 15 – 17 cháu chết. Nghe nói có dịch bệnh gây chết tràn lan, tôi đến các bệnh viện xem, thấy các dạng bệnh giống y như tôi đã từng gặp, tôi viết ngày một bài, nói rõ về bệnh và phổ biến bài thuốc “Thần dược cứu bệnh” gởi lên Bộ trưởng Bộ y tế, lúc bấy giờ là bác sĩ Nguyễn Văn Hường. Bác gởi phổ biến đến các tỉnh đồng thời đăng ngay trên báo “Hà Nội mới”.
Vài tháng sau, đến hội nghị tổng kết chống dịch sốt xuất huyến toàn miền Bắc do Sở Y tế Hà Nội tổ chức, tôi nhận được thư mời của đồng chí giám đốc Sở Y tế Hà Nội. Trong giấy mời đồng chí viết:
Trong cuộc chống dịch sốt xuất huyết vừa qua, Bộ có sử dụng 4 bài thuốc nam do nhân dân đóng góp. Nói chung thuốc nam trị bệnh này đạt hiệu quả rõ ràng và nahnh chóng hơn Tây y. Tuy nhiên, trong các  bệnh nhân dùng ba bài thuốc kia vẫn có những ca tử vong. Duy chỉ có bài “Trùn đất” của đồng chí là cứu sống 100%, không có ca tử vong nào. Mặc dù bài thuốc đó đã dùng cho tất cả các bệnh nhân nặng nhất. Vì vậy, mời đồng chí dự hội nghị tổng kết. Đặc biệt mời đồng chí báo cáo với hội nghị một số vấn đề mà chúng tôi muốn biết.     .
Nói chung “thần dược” có đặc điểm 65 phút thật kỳ lạ. Đang hôn mê cả chục ngày, vụt mở mắt, đòi ăn, uống, đòi tiêu, tiểu. Đang điên bỗng tỉnh như thường. Đang bí tiêu tiểu thì đi được. Bí cả chục ngày bỗng tiêu loãng. Ung thư gan, ruột bệnh viện bỏ chết cho về, bỗng xổ ra hàng chậu nước đen, thối như cả một con bò chết sình để trong nhà. Tai biến mạch máu não cả chục ngày cũng tỉnh dậy, nói cười được.
Cuối cùng tôi quyết phải cố gắng viết đưa vấn đề này lên mặt báo để bài “Thần được cứu bệnh” đến tận tay đồng bào, nhất là bà con ở vùng xa xôi hẻo lánh, đường đi tới bệnh viện có khó khăn, người ta buộc lòng phải cứu mạng người thân. Nếu có hàng trăm, hàng ngàn người được cứu sống thì bài thuốc này sẽ được khẳng định.
Bài thuốc gồm 3 vị: trùn đất, đậu đen, rau ngót. Trong quá trình trị bệnh cứu người tôi có gia thêm vị thứ tư là đậu xanh. Vì tôi nghĩ đào trùn ở những nơi có thể có những chai lọ hóa chất hoặc đào vào các gốc cây có độc như xương rồng, chùm ruột…nhiều trùn bị nhiễm độc, nên cần phải có đậu xanh giải độc.
(  Nếu đào phải trùn độc sẽ nguy hiểm,  tốt nhất phải mua loại trùn nuôi chuyên làm thuốc, đã xấy khô ở hiệu thuốc bắc, rồi chế biến thành bột Địa long như đã hướng dẫn  – Đoàn Thanh Hương. )
Thuốc này bệnh càng nặng càng thấy rõ hiệu quả 65 phút. Bệnh nhẹ ít thấy rõ kết quả nhưng bệnh vẫn lui. Ở Đại Hàn (Nam Triều Tiên) là xứ sở nhân sâm caoli mà người ta còn tẩm bổ bằng cháo trùn. Dưới đây tôi cũng xin ghi rõ địa chỉ và số điện thoại của mình để bạn đọc tiện liên hệ, trao đổi :
          Ngày 10-6-1997
         Nguyễn An Định. ĐT: 8914379
         (40/10 Hậu Lân – Bà Điểm – Hóc Môn – TP HCM )

Mọi liên hệ trao đổi gửi về : sucmanhvothuc@gmail.com

No comments:

Post a Comment