Search This Blog

Wednesday, November 30, 2011

Trận chiến ở Tuyên Nhơn ; 
Đoàn Quang Vũ ,
Đôi Dòng Tâm Sự
    Sau ngày ra tù, tôi vượt biên qua định cư ở Mỹ. Tôi đã gặp quá nhiều chuyện đau lòng trong quá khứ. Tôi muốn lặng im tất cả để sống âm thầm với kỷ niệm. Nhưng định mệnh vẫn không để cho tôi yên, tôi vẫn muốn làm một cái gì đó để rửa mối hận trong lòng và trả thù cho các chiến hữu thân yêu của mình trong đó có chiến hữu Lê Anh Tuấn. Tôi mong có một ngày trở lại Việt Nam, cùng đoàn quân chiến thắng, cải táng hài cốt của Tuấn và vinh danh người chiến sĩ anh hùng này.
    Nhiều người hỏi tôi về cái chết của Tuấn, nhưng tôi tránh né, cho đến hôm nay sau hơn 25 năm, tôi đến nhà hàng Paracel ăn cơm tình cờ gặp lại Đại Tá Nguyễn Văn Thông. Đại Tá Thông trước đây là Tư Lệnh Lực Lượng Thuỷ Bộ kiêm Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Nhiệm 214, tôi ở Liên Đoàn 214.1 của Đại Tá và Thiếu Tá Lê Anh Tuấn là Giang Đoàn Trưởng Giang Đoàn 43 Thuỷ Bộ. Đại tá Thông đưa tôi xem tập hồ sơ trong đó có bức ảnh và tiểu sử của Lê Anh Tuấn cùng tiến trình hoạt động của căn cứ Tuyên Nhơn. Mộc Hoá. Chợt nhìn thấy hình ảnh của người chiến hữu thân yêu của mình, tôi không khỏi ngậm ngùi đau xót. Dòng lịch sử hiện thực đã lướt qua trong óc tôi, tôi miên man nhớ lại dĩ vãng vui buồn bên nhau, bên các đồng đội đã cùng nhau chiến đấu trong một trận chiến kéo dài hôm 6 tháng.
    Sau ngày rã ngũ, người chết đã không yên mồ, yên mả. Kẻ sống lưu lạc khắp bốn phương trời không biết ra sao !!!! Đại Tá Thông và Đô Đốc Đào đã nhắc lại quá khứ của Hải Quân kiêu hùng bất khuất và khuyên tôi nên kể lại sự thật về trận chiến ở Tuyên Nhơn.
    Hôm nay trận mưa đầu muà và bất thường ở Cali, tôi lại nhớ đến tiếng dế nỉ non như thương tiếc các chiến hữu đã nằm xuống cho đất nước Việt Nam Độc Lập, Tự Do được trường tồn. Tôi không tô điểm cho cuộc chiến mà chỉ ghi lại đây như một báo cáo hành quân trong trang Hải Sử.

I. Những trận thư hùng:
   
Vào tháng 10 năm 1974, Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam họp hành quân ở Tiểu Khu Mộc Hoá ra lệnh cho Trung Đoàn 15 Bộ Binh, Tiểu Khu Mộc Hoá, Thiết Đoàn M113 dưới sự yểm trợ hoả lực và chuyển quân của Liên Đoàn 214.1; lợi dụng mùa nước nổi đột kích thẳng vào Mật Khu Tam Biên của Cộng Sản.
    Sau 10 ngày hành quân, quân ta đã vào được hậu cần của địch, bên trong biên giới Miên, phá huỷ vô số tiếp liệu phẩm củ địch đủ để cung cấp cho một sư đoàn trong vòng 1 tháng và lần đầu tiên tịch thu được xe vận tải Molotova của Bắc Việt tại chiến trường miền Nam. Hải Quân Đại Úy Trương Minh Hoàng, Giang Đoàn Trưởng Giang Đoàn 64 Tuần Thám đã yểm trợ tích cực và hữu hiệu cho cuộc hành quân nên đã được Thiếu Tướng Nam hết lời khen thưởng.
    Đến đầu tháng 11 năm 1974. Tàu tuần tiễu của Giang Đoàn 64 Tuần Thám lại phát hiện nhiều ghe muối đi từ Long An lên Mộc Hoá để tiếp tế cho quân Bắc Việt vừa mới xâm nhập. Tin tình báo cũng cho biết Trung Đoàn Z15 cộng sản được tăng cường 1 đại đội pháo, hỏa tiễn 122 ly và 12 hỏa tiễn SA7 sẽ có kế hoạch tấn công các căn cứ quân sự của ta nằm dọc theo sông Vàm Cỏ Tây.
    Trung tuần tháng 11, tàu tuần tiễu của ta lại phát hiện và tấn công quân cộng sản qua sông ngang rừng tràm cách chợ Tuyên Nhơn về hướng Nam khoảng 10 cây số. Sư Đoàn 7 Bộ Binh lập tức mở cuộc hành quân và tịch thu được nhiều chiến lợi phẩm. Chi Khu Tuyên Nhơn và Liên Đoàn Hải Quân cũng tịch thu được nhiều quân trang, quân dụng và thực phẩm của địch.
    Tin điện thám cho biết có một tướng địch vào vùng hành quân để triển khai kế hoạch tấn công. Bên ta đặt trong tình trạng báo động 100% phòng hờ địch. Đô Đốc Đặng Cao Thăng, Đại Tá Nguyễn Văn Thông đã đến Tuyên Nhơn duyệt xét lại khả năng tác chiến và tăng cường hệ thống phòng thủ cùng hệ thống điện báo.
    Đêm 6 tháng 12 năm 1974, một Trung Đoàn cộng sản Bắc Việt đã tấn công đồn Ba Thắng Minh cách Tuyên Nhơn khoảng 15 cây số về hướng Bắc. Đồn có một Đại Đội Điạ Phương Quân và Tiểu đội Pháo Binh 105 ly, gia đình binh sĩ ở trong đồn.
    Từ giữa đêm địch bắt đầu tấn công, đến 3 giờ sáng, Tiểu Đội Pháo Binh bị triệt hạ. Đến 4 giờ địch xung phong tràn vào đồn, đồn hình tam giác đã bị san bằng 2 góc. Đàn bà và trẻ con tiếp đạn, cầm súng thay chồng chống giặc, lùi dần về cứ điểm cuối cùng ở phiá Nam. Thiếu Tướng Nam ở đầu máy truyền tin (nhờ đài truyền tin của căn cứ Hải Quân Tuyên Nhơn làm trung gian chuyển tiếp) ra lệnh cho pháo binh Tiểu Khu yểm trợ. Đại Úy Đại Đội Trưởng uất nghẹn trong máy xin từ biệt Thiếu Tướng và xin pháo binh san bằng căn cứ địa vì địch đã tràn ngập trong đồn.
    Đến 5 giờ sáng, Thiếu Tướng Nam ra lệnh phải cố thủ đồn để đưa viện binh đến. Hải Quân phải lập tức lên đường để giải vây đồn từ hướng Nam; Bộ Binh tháp tùng M113 đi xuống từ phiá Bắc. Hải Quân Đại Úy Trương Minh Hoàng, Hải Quân Trung Uý Mã Hùng Cường dẫn đoàn tàu vào vùng địch lúc tờ mờ sáng, tác xạ dữ dội vào hai bên hông đồn khiến địch phải rút lui. Nhưng đáng tiếc đồn đã tan nát; Đại Úy Đại Đội Trưởng đã tử trận, còn lại khoảng 20 binh sĩ và vợ con bê bết máu được đưa về Mộc Hoá.
    Ngay ngày hôm sau để trả đũa Hải Quân, căn cứ Hải Quân Tuyên Nhơn đã bị địch pháo hoả tiễn 122 ly và cối 82 ly từ hướng Đông bắn sang. Ta phản pháo.
    Ngày 8 tháng 12, Hải Quân chở quân từ Ấp Bắc vào kinh Đồng Tiến triệt hạ căn cứ hậu cần của địch. Ta tịch thu được nhiều tấn gạo của địch, nhưng khi hành quân xong, 1 Đại đội Trinh Sát của Sư Đoàn 9 đã theo trực thăng Chinook về hậu cứ đã bị SA7 của cộng quân bắn rớt cách Ấp Bắc khoảng 5 cây số về hướng Bắc.



HQ/Th.Tá Lê Anh Tuấn

II. Tấn công căn cứ Hải Quân Tuyên Nhơn
    Địch đã căm hận Hải Quân, quyết tâm phải tiệt hạ căn cứ Hải Quân Tuyên Nhơn cho bằng được nếu muốn đưa quân vào tấn công Long An. Hải Quân đã phá vỡ nhiều kế hoạch chuyển quân và làm tiêu hao tiềm lực tác chiến của chúng (theo lời của 1 Chuẩn Uý Đặc Công cộng sản bị bắt sau đó). Chúng đã cho đặc công nhiều lần bò vào căn cứ dọ thám nhưng thất bại. Sau cùng kế hoạch tấn công Căn Cứ Hải Quân Tuyên Nhơn đã thành hình: - Hai Tiểu Đoàn thuộc Z15 tấn công từ hướng Bắc - Một Tiểu Đoàn điạ phương và một Đại Đội đặc công tấn công từ hướng Nam Khi nào toán đặc công vào được căn cứ mới có lệnh tổng tấn công.
    Tết Âm Lịch, Đô Đốc Đặng Cao Thăng và Đại tá Nguyễn Văn Thông đến viếng Tuyên Nhơn thăm hỏi anh em binh sĩ và khuyến cáo là căn cứ có thể bị tấn công (theo tin tình báo), nên chuyển đạn từ trong kho xuống giang đỉnh và các tổ tác chiến (Sau khi rút quân về nước, Hải Quân Hoa Kỳ bàn giao cho Căn cứ Tuyên Nhơn hơn hai cấp số đạn ngoài kế toán dự trù. Đạn đại liên 50 còn hơn 200 ngàn viên). Không thể nói là một sự tình cờ hay một định mệnh an bài mà là một sự nghiên cứu cặn kẽ của địch đối với mọi hoạt động của ta để thừa cơ hội tấn công. Cứ mỗi lần Liên đoàn trưởng đi họp là địch lại tấn công; thứ đến là địch pháo kích vào căn cứ Hải Quân, Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn và Phòng Hành Quân rất chính xác mà không một trái đạn nào rơi vào chi khu Tuyên Nhơn (chi khu Tuyên Nhơn chỉ cách căn cứ Hải Quân Tuyên Nhơn bằng một mô đất dài và một cổng sắt. Ngay kế hoạch tấn công của chúng không đá động gì đến chi khu Tuyên Nhơn, chúng tôi có đặt dấu hỏi này với Thiếu Tá Quang chi khu Trưởng chi khu Tuyên Nhơn. Phải chăng có nội tuyến trong chi khu !!!)
    Ngày 25/3/1975 Liên Đoàn Trưởng về Mỹ Tho để họp Hải Quân Thiếu Tá Lê Anh Tuấn, Liên Đoàn Phó Hành Quân và Đại Úy Khải, Chỉ Huy Phó Giang Đoàn 64 Tuần Thám trông coi đơn vị. Ngay hôm đó địch triển khai kế hoạch tấn công.
    Đêm 26/3/1975 Đại Đội đặc công Việt Cộng đã vào sát hàng rào kẽm gai ở phía Nam và phiá Bắc, Việt Cộng đã vào đến hàng rào B40. 12:00 đêm Thiếu tá Tuấn từ giã Chi Khu Trưởng về tuần tra căn cứ. Phòng hành quân khẩn báo là máy điện thám báo động không ngừng từ đầu hôm nhiều hơn mọi khi. Theo kế hoạch đã định sẵn Thiếu tá Tuấn lập tức cho kéo còi báo động. Các chiến đỉnh và các ổ phòng thủ đã sẵn sàng ở nhiệm sở tác chiến hằng đêm. Địch lầm tưởng đã bị phát hiện vội tấn công, ta phản công dữ dội, một số B40 đã gác lên hàng rào cũng không bắn kịp, đặc công nằm chết tại hàng rào kẽm gai. Địch tấn công bằng B40 và súng cá nhân, ta phản công bằng Đại Liên, M79, cối 81. Chiến trường ngẹt mùi thuốc súng. Sau 2 giờ giao tranh chỉ còn nghe tiếng súng của ta phản công địch mà không còn nghe tiếng địch. Đạn cối và đại liên của ta liên tục nổ cho tới sáng mới thôi. Kết qủa bên ta hoàn toàn vô sự. Thiếu tá Tuấn xin Chi Khu lục soát quanh căn cứ thấy hơn 30 xác địch và 50 súng cá nhân B40. Việt Cộng đã cấm ghe thuyền qua lại trên sông để chúng tải thương. Tin dân chúng cho biết địch có thể tử thương trên 200 người.
    Sau trận chiến Đô Đốc Lâm Ngươn Tánh, Đô Đốc Thăng, Đại tá Thông, Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam đã đáp trực thăng xuống tận căn cứ để khen thưởng Thiếu Tá Tuấn và anh em binh sĩ Hải Quân. Chợ Tuyên Nhơn chỉ cách căn cứ Hải Quân 5 cây số đã bị Việt Cộng chiếm đóng từ 25 tháng 3, dân chúng tản cư ra Mộc Hóa. Hải Quân bị cô lập không ra sông Vàm Cỏ được, mọi tiếp tế đều phải chở bằng đường bộ.
    Sau một tuần an binh bất động, chi khu Tuyên Nhơn và Hải Quân đột kích phá vòng vây triệt hạ một trung đôi địch tịch thu 12 súng cá nhân. Đến chiều ngày 29 tháng 3 Trung Đoàn 15 bộ binh và M113 hành quân bờ kinh phiá đông sông Vàm Cỏ cách căn cứ Hải Quân 15 cây số. Hai chiếc F5 đến dội bom yểm trợ, một chiếc bị trúng SA7 lảo đảo, bốc khói rơi thật chậm trước mặt mọi người .Chiếc còn lại bay lượn, nhào lộn dội bom, bắn phá dữ dội không biết làm sao để cứu bạn mình đang trên dù rơi xuống lòng địch, trông thật thảm thương !!!

III. Ngày 2 tháng 4 năm 1975, đến phiên Hải Quân khóc bạn .
    Vừa nhận được lệnh hành quân Đại Úy Khải, Chỉ Huy Phó Giang Đoàn 64 Tuần Thám vội vã lên đường để kịp chuyển quân từ Ấp Bắc vào Đồng Tiến, 30 phút sau toán giang đỉnh báo cáo là Đại úy Khải đã bị mìn tử trận cùng 7 anh em trên giang đỉnh. Đại úy Khải là một người rất vui tính, được sự cảm mến mọi người. Cái tang của Đại úy Khải làm đau lòng tất cả anh em trong trại. Ngày 5 tháng 4 năm 1975 chúng tôi họp với Trung Tá Tập, Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 15 Bộ Binh, xin hành quân giải tỏa chợ Tuyên Nhơn và mở đường giao thông về Bến Lức.
    Ngày 10 tháng 4 đoàn tàu tiếp tế nhiên liệu và lương thực do Thiếu Tá Trần Ngọc Anh đã vào được căn cứ Tuyên Nhơn. Chúng tôi gặp nhau rất mừng rỡ, hỏi thăm tin tức chiến sự trên toàn quốc, được biết rõ hơn cộng sản Bắc Việt đã tấn công Ban Mê Thuột, Bình Long An Lộc. Riêng tại Vùng 4 Công Trường 7 VC dự tính sẽ cắt đường từ Long An về Sài Gòn, Thiếu tướng Nam ra lệnh cho Trung đoàn và Liên đoàn Hải Quân phải kịp thời ngăn chặn địch.
    Từ tháng 12 năm 1974 đến 29 tháng 4 năm 1975 địch pháo kích ngày đêm vào căn cứ Hải quân để cầm chân ta. Ta đã bị thiệt hại nhiều vì pháo kích -10 Tử thương, 40 bị thương - Phòng hành quân bị sập một góc - Máy đèn bị cháy - Đồn trại nhiều nơi bị sập - Dãy nhà Liên đoàn bị phá hủy.
     Thiếu Tá Tuấn sau khi đi phép Sài Gòn về có nói với tôi là Bộ Tư Lệnh định thuyên chuyễn Thiếu tá Tuấn đi đơn vị khác nhưng Thiếu tá Tuấn xin ở lại. Thiếu tá Hoàng, Giang đoàn Trưởng Giang Đoàn 64 Tuần Thám được lệnh thuyên chuyển đi học cũng xin ở lại Tuyên Nhơn .
    Ngày 29 tháng 4 năm 1975, tôi vào Bộ Tư Lệnh Hải Quân để liên lạc về Tuyên Nhơn, lính gác cổng không cho tôi vào bảo là có lệnh không cho bất cứ ai được vào Bộ Tư Lệnh, dù lúc đó tôi mặc quân phục và đi xe quân đội. Tôi chạy xuống Bến Lức liên lạc được với Thiếu tá Tuấn cho Tuấn biết là tôi không vào Tuyên Nhơn được vì đường quốc lộ đã bị cắt, và nói rõ với Tuấn là tôi còn ở lại!.
    Sự kiên trì chống địch của căn cứ Tuyên Nhơn phải kể đến sự góp công lớn của 2 người:
   
Người thứ nhất là Hải Quân Thiếu Tá Trương Minh Hoàng, Chỉ Huy Trưởng Giang Đoàn 64 Tuần Thám, Thủ Khoa Khoá 14 Hải Quân Nha Trang. Hoàng là một người rất hoà nhã, bình tĩnh và can đảm. Có lần địch pháo trúng Phòng Hành Quân, lửa phát cháy dữ dội. Dù địch đang pháo kích, Hoàng đã rời nơi ẩn núp chỉ huy toán cấp cứu dập tắt ngọn lửa, tôi bị kẹt bên trong mới ra thoát được. Có lần đang dùng cơm trưa tại Tiểu Khu Mộc Hoá, Thiếu Tướng Nam có nói với tôi: “Có lẽ cần một Chi Khu Trưởng ở Tuyên Nhơn thì hữu hiệu hơn vì vùng này sông rạch quá nhiều; theo anh nghĩ ai là người thích hợp.” Tôi đáp: “Thiếu Tá Hoàng là người trầm tĩnh và can đảm rất xứng đáng giữ chức vụ hành chánh kiêm hành quân.”
    Người thứ hai là Đại Úy Mã Hùng Cường, Chỉ Huy Phó Giang Đoàn 43 Thuỷ Bộ, nhờ có Đại Úy Cường hết lòng trông nom, huấn luyện binh sĩ nên giang đoàn của Thiếu Tá Tuấn lúc nào cũng sẵn sàng trong tư thế tác chiến, do đó khi chạm địch binh sĩ rất can đảm chiến đấu, đàn áp được địch ngay từ phút đầu.
     Trong suốt thời gian chạm địch tinh thần binh sĩ rất cao, tình huynh đệ chi binh thật khắng khít, thương yêu đùm bọc lẫn nhau nên không có lính đào ngũ. Ở căn cứ Tuyên Nhơn địch không pháo kích dữ dội như Bình Long An Lộc nhưng bất chợt pháo lúc nào không hay. Có khi 10 quả có khi 20 quả rồi lại ngưng làm điên đầu mọi người, không biết sống chết lúc nào, chỉ mong đạn tránh mình. Căn cứ chằng chịt giao thông hào để tránh pháo.
    Bình Long An Lộc đã đi vào lịch sử chiến đấu của quân lực Việt Nam Cộng Hòa, rất xứng đáng với lời ca tụng.
Bình long An Lộc địa danh lưu chiến sử
Người Anh Hùng Vị Quốc Vong Thân
    Tôi chỉ xin ghi lại lời của Đô Đốc Lâm Nguơn Tánh khi thăm viếng căn cứ Hải Quân Tuyên Nhơn: Bộ binh có Bình Long An Lộc, Hải Quân có Tuyên Nhơn Mộc Hoá.
Đoàn Quang Vũ

Thà Chết Không Chịu Hàng Giặc

Hải Quân Thiếu Tá Lê Anh Tuấn
và Căn Cứ Chiến Lược Tuyên Nhơn


Căn Cứ Tuyên Nhơn.

Kể từ giữa năm 1974, người lính Mỹ đã là một hình ảnh xa mờ trên chiến trường Việt Nam. Riêng Hải Quân Việt Nam, như hoàn cảnh chung của Quân Đội, sự thiếu hụt về tiếp liệu, cơ phận thay thế là lẽ đương nhiên, nhưng bờ biển Việt Nam vẫn được các chiến hạm, chiến đĩnh ngày đêm đan kín. Việc tiếp tế của Hànội cho cộng sản miền Nam chỉ còn trông vào đường bộ : đường mòn Hồ Chí Minh. Con đường huyết mạch của cộng sản chạy dọc theo mé Tây của dãy Trường Sơn, nằm trên đất Lào, vào sâu tận biên giới Miên Việt . Từ đó, từ Mỏ Vẹt, và dọc theo biên giới Việt Miên, nhất là xuôi theo 2 con sông Vàm Cỏ Đông, Vàm Cỏ Tây thâm nhập qua các sông lạch chằng chịt vào đồng bằng Cữu Long.
Hai con sông Vàm Cỏ chạy xuôi theo hướng Tây Bắc - Đông Nam, ở ngay phía Tây Nam Sàigòn. Một giải đất trù phú trong vòng tay 2 con sông ấy là các điểm chiến lược có ảnh hưởng đến sự an nguy của Sàigòn: Quốc Lộ 4, cầu Bến Lức, cầu Long An, nhất là các con kinh song song nhau theo hướng Đông Tây, là mạch máu nối liền với sông Tiền, sông Hậu. Một con kinh đã đi vào lịch sử của cuộc chiến Việt Nam, ít nhất là ở giai đoạn cuối cùng của cuộc chiến : kinh Đồng Tiến. Kinh Đồng Tiến, bắt đầu từ ngã ba chợ Tuyên Nhơn, ở hữu ngạn sông Vàm Cỏ Tây. Trước đây, Quận Tuyên Nhơn đóng tại ngã ba này. Sau vì áp lực quá mạnh của địch, Quận Tuyên Nhơn, Chi Khu Tuyên Nhơn và cả đơn vị Pháo Binh 105 ly cùng di chuyển vào nắm sát bên cạnh Căn cứ Hải Quân Tuyên Nhơn.
Căn cứ Hải Quân Tuyên Nhơn, nằm ở bờ Nam kinh Đồng Tiến, cách ngã ba chợ Tuyên Nhơn độ 3 cây số. Trước mặt là bờ kinh, làm bãi ủi cho các chiến đĩnh. Mặt kinh rộng độ 100 thước. Bên kia bờ, bờ Bắc là một bức tường đất cao, trên đó một hàng rào sắt, kết lại bằng các mặt lưới chống B.40. Ngoài hàng rào là la liệt những ổ mìn do Đội Tác Chiến Điện Tử thiết trí. Vì từ hàng rào này chạy suốt về hướng Bắc là một rừng cây đước âm u, nơi xuất phát của các cánh quân cộng sản từ biên giới Miên tiến về, với chằng chịt những con lạch nhỏ. Tại bãi mìn này là nơi mà các cán binh cộng sản lần lượt bỏ xác lại không thể nào đếm xuể. Căn cứ Tuyên Nhơn, chạy dọc theo mé kinh, bờ Nam, dài độ 200 thước, rộng không quá 100 thước. Phía mặt và phía sau căn cứ cũng dầy đặc một bãi mìn. Sát ngang hàng rào, phía tay trái là sân đáp trực thăng, và sau đó Quận Đường Tuyên Nhơn. Nơi đồn trú của Liên Đoàn Đặc Nhiệm 214.1, gồm Giang Đoàn 43 Ngăn Chặn và Giang Đoàn 64 Tuần Thám. Đây là cái gai khó nuốt của cộng sản, là trở ngại chết người trên con đường huyết mạch của địch.
Vào thời gian cuối của cuộc chiến, lực lượng mạnh mẽ của Việt Cộng tại vùng này là Đoàn 232, có nhiệm vụ san phẳng vùng này, cắt đứt Quốc Lọâ 4, để làm bàn đạp đưa quân và đồ tiếp liệu tư biên giới Vệt Miên về Vùng IV Chiến Thuật. Chúng đã cố sức nhiều lần muốn san phẳng Căn cứ Tuyên Nhơn, nhưng, dù rất nhiều lần tấn công tàn bạo, Căn cứ Hải Quân Tuyên Nhơn vẫn còn đó. Sau đây là những trận đánh tiêu biểu trong thời gian ấy.

Những Trận Thư Hùng Ác Liệt

Đêm 6 tháng 12 năm 1974, một Trung Đoàn Cộng sản Bắc Việt đã tràn ngập khu này, san phẳng các đồn bót, chiếm chợ Tuyên Nhơn chúng dùng hỏa tiển 122 ly pháo như mưa vào Căn cứ Hải Quân Tuyên Nhơn trước khi cho bộ binh tấn công. Dưới cơn mưa pháo, các mái nhà trong căn cứ đều bay hết, nhưng Căn cứ Tuyên Nhơn vẫn đứng vững. Mọi quân nhân và gia đình binh sĩ được ở cả dưới hầm. Chi Khu Tuyên Nhơn, nằm sát căn cứ cũng vẫn còn đó. Xác địch nằm la liệt bên hàng rào đơn vị.
Đêm hôm sau, 7 tháng 12 năm 1974, địch lại tấn công tàn bạo hơn. Căn cứ Hải Quân và Chi Khu Tuyên Nhơn vẫn chống trả mãnh liệt. Địch lại phải rút, bỏ lại 12 xác chưa kịp đem đi. Để giải tỏa áp lực địch, Sư Đoàn 9 Bộ Binh mở cuộc hành quân chận đường tiến quân của địch. Ngày 11 tháng 12 năm 1974, bộ binh được trực thăng vận đến. Một Đại đội Trinh sát, khi sắp sửa đáp xuống sân bay, chiếc Chinook bị bắn rơi bằng hỏa tiển SA.7. Chiếc trực thăng bốc cháy, và cả Đại đội Trinh sát hầu như rất ít người sống sót. Chiếc trực thăng rơi xuống như một khối lửa, trước sự chứng kiến của toàn thể thủy thủ đoàn trên các chiến đĩnh nằm tản mát trên mặt kinh. Sau trạân thư hùng này, mặt trận Tuyên Nhơn có phần lắng dịu. Sự lắng dịu của đợi chờ, và đón nhận những trận thư hùng khác ác liệt hơn.
Ngày đó cũng không xa. Đó là ngày 26 tháng 3 năm 1975, một cuộc tấn công quy mô hơn, tàn bạo hơn và cũng liều lĩnh hơn đã được diễn ra tại vòng rào Căn cứ Hải Quân Tuyên Nhơn.
Như một định mệnh khắc nghiệt, một thử thách lạ lùng, trong các đụng độ trên, cũng như cuộc thư hùng ác liệt hôm 26 tháng 3 năm 1975, Chỉ Huy Trưởng Liên Đoàn Đặc Nhiệm214.1, HQ. Thiếu Tá Đoàn Quang Vũ hoặc đi hội, hoặc đi phép, cả căn cứ gồm 2 Giang Đoàn 43 Ngăn Chận, và 64 Tuần Thám, chỉ có HQ. Thiếu Tá Lê Anh Tuấn là sĩ quan thâm niên hiện diện. Chính Thiếu Tá Tuấn đã lần lượt phải gồng mình chống lại các cuộc tấn công này. Cuộc thư hùng thật khốc liệt,trận địa, sau một đêm tốc chiến, xác địch ngổn ngang, chồng lớp. Sau trận này, Tuấn có mặt tại Sàigòn, và sau đây là cuộc đụng độ ác liệt được viết lại theo lời kể cuả "Người Hùng Tuyên Nhơn", như sau :
" HQ. Đại Tá Nguyễn Văn Thông, Tư Lệnh Lực Lượng Trung Ương vị chỉ huy trực tiếp của Thiếu Tá Tuấn, sau lần thanh tra, nhắc "các cậu phải cẩn thận tối đa nghe". Rồi Phó Đề Đốc Đặng Cao Thăng, Tư Lệnh Hạm Đội Đặc Nhiệm 21, chỉ huy tất cả các lực lượng trong sông ở Vùng IV cũng như các căn cứ trong vùng, cũng nhắc : "cẩn thận nghe Tuấn..." Tuấn chỉ "Dạ" rồi nhìn lên tấm bản đồ trong phòng Hành Quân. Các vị trí phản pháo đã sẵn. Các điểm hỏa lực cũng được bố trí thật chu đáo. Có điều Tuấn lo là tình trạng căng thẳng kéo dài quá lâu sợ tinh thần anh em nản và lơ là. Vì thế, giữa cái lo cực độ, Tuấn phải làm ra vẻ cười đùa. Buổi chiều Tuấn hay uống bia. Đôi khi Tuấn đem chai bia Quân Tiếp Vụ ra ụ súng uống với lính.
Hai giờ sáng, Tuấn vẫn còn thức, chăm chú trên các trang sách của cuốn Công Pháp Quốc Tế. Tuấn gập sách lại, đi tiểu, rồi đi một vòng căn cứ, luồn trong các đường hầm. Cùng lúc ấy Tuấn gọi cho các chiến đĩnh đang tuần tiễu, phân tán, phải sẵn sàng theo kế hoạch đã ấn định. Tuấn đứng trên nóc lô cốt chính nhìn ra bốn phía. Những hàng đèn vàng èo uột lấp loáng qua những hàng kẽm gai. Gió từ mặt kinh thổi mát. Mặt kinh vẫn phẳng lặng. Không hiểu sao Tuấn thấy rờn rợn. Tuấn định thần lại và sao thấy thiếu hẳn tiếng vạc bay qua bầu trời. Tuấn cho đèn pha chiếu ra hàng rào ở mặt trước căn cứ. Ánh sáng vừa loé lên, Tuấn thấy ở ngoài hàng rào, lính cộng sản lô nhô, tức thì từng tràng đạn bùng lên từ hai phía.
Ngay lúc ấy, hỏa lực của ta tại các ụ súng phản pháo ngay. Các chiến đĩnh tản mác trên mặt kinh được tức tốc chạy về. Địch đã đen kịt ở hàng rào trước mặt căn cứ bên kia sông. Chúng như đàn chó đói, không sợ chết, đang muốn vượt rào lội qua kinh để cướp tàu và áp đảo căn cứ. Các khẩu đại bác trên các chiến đĩnh bình tĩnh đan chéo những lằn đạn. Xác địch rụng xuống như sung. Đợt xung phong của chúng tạm ngừng. Trận địa bỗng yên lặng ghê rợn. Rồi một loạt hỏa tiển 122 ly, có lẽ từ chợ Tuyên Nhơn, câu vô, rất chính xác, nổ tung trên căn cứ và cả mặt trước dưới lòng kinh. Các chiến đĩnh vội tản ra để tránh pháo. Pháo ngưng. Lại một đợt xung phong khác ở sau hàng rào bên kia bờ đất sát con kinh. Chúng lại ào ào muốn lội qua kinh. Súng ở các ụ súng từ ven bờ kinh, trên căn cứ bắn ra như mưa. Một số địch quân đã qua được bên này kinh, bờ Nam, dùng bộc phá cắt đứt hàng rào. Tất cả diễn tiến ác liệt nói trên Tuấn đều báo cáo đầy đủ. Trời đã gần sáng. Địch đã khá đông ở ngoài hàng rào, đồng loạt hô xung phong. Đúng lúc ấy, loạt mìn đĩa, hướng ra sông nổ bùng. Từng xác người bay lên, rồi im bặt. Mặt trận lắng lại như qua một cơn mê. Trời đã sáng. Mặt kinh phẳng lặng. Các chiến đĩnh lần lượt quay về căn cứ. Tuấn cầm máy báo cáo lên thượng cấp: "Địch đã rút. Xác địch nằm đầy ngoài hàng rào".
Vào khoảng 11 giờ trưa, 27 tháng 3 năm 1975, chiếc trực thăng đáp xuống. Thượng cấp là HQ Đại Tá Nguyễn Văn Thông, và Phó Đề Đốc Đặng Cao Thăng. Trận địa vẫn ngổn ngang xác địch và âm ỷ khói than. Ngoài một số vũ khí vừa thu nhặt lại, còn rất nhiều xác địch nằm ở hàng rào mặt tiền đơn vị, cũng như ở gần bên kia hàng rào, phía bờ Bắc con kinh.
Kết quả của cuộc phản công này của căn cứ Hải Quân Tuyên Nhơn, đã làm địch khiếp vía và tất nhiên tràn ngập căm thù. Bên ta , hơn 30 chiến sĩ tử trận và bị thương. Tuấn, HQ Thiếu Tá Lê Anh Tuấn, được Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam, Tư Lệnh Quân Đoàn IV, Vùng IV Chiến Thuật, nhiệt liệt ngợi khen, và đề nghị thăng cấp Trung Tá tại mặt trận. Nhưng phải chăng đó cũng là niềm vinh quang báo trước sự bất hạnh của một người anh hùng, đôi bên chẳng đội trời chung.
Xác địch được vứt lên GMC, đem đi chôn tập thể. Một số xác địch chìm dưới lòng kinh, mấy hôm sau mới nổi lên trôi đi, trôi lại trên khúc sông này. Chợ Tuyên Nhơn cách căn cứ 3 cây số. Một số dân còn ở lại, nhìn xác địch nỗi trôi mà bàn tán, lắc đầu. Đồng thời tên Lê Anh Tuấn khét tiếng khắp vùng.

Phút Cuối Của Một Kẻ Anh Hùng

Tại căn cứ chiến lược Tuyên Nhơn, vào các ngày chót của cuộc chiến nơi đồn trú của Liên Đoàn Đặc Nhiệm 214.1 vẫn sinh hoạt đều hòa, bình tĩnh. Mặc dù, gần một nửa chiến đĩnh đã bất khiển dụng, một phần là trúng đạn pháo kích của địch, một phần là các cơ phận thay thế đã không còn. Chiến đĩnh nằm gác mũi vào bờ như những lô cốt tiền sát. Qua tin tình báo và qua sự phát hiện tình cờ của dân, đại quân của địch dù không "nuốt" được căn cứ Tuyên Nhơn, cũng đã tràn từ biên giới Việt Miên về. Các đồn bót phía Bắc kinh Đồng Tiến đã bị tràn ngập. Bên kia sông Vàm Cỏ Đông, Công Trường 7 của địch đã ào ạt từ Mỏ Vẹt, Đồng Tháp Mười đã tiến qua kinh Ngang, đang áp đảo phía Bắc con kinh Thủ Thừa, nối liền hai nhánh sông Vàm Cỏ Đông và Vàm Cỏ Tây. Địch im lặng như thầm nhủ: "Để đó, rồi mầy sẽ biết tay tao".
Lúc ấy, Sàigòn đã ở vào giai đoạn chót của cuộc chiến. Mặt trận Xuân Lộc, là một biểu lộ dũng mãnh của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, cửa ngõ của Sàigòn, đã vỡ. Chính trị rối ren. Dân chúng Thủ Đô đã bắt đầu rối loạn. Nhưng cả Vùng IV vẫn còn yên. Căn cứ Tuyên Nhơn vẫn bình thản đợi chờ một cuộc thư hùng khác. Nhưng không, tất cả vẫn thật là êm ả dù áp lực của địch mỗi lúc mỗi khép lại dần, mỗi lúc mỗi thấy khốc liệt. Aùnh mắt của dân trên các con đò qua lại, như có điều gì lo âu, e ngại. Các mặt trận khác mỗi lúc mỗi vỡ. Tới tối ngày 29 tháng 4 năm 1975, Tư Lệnh Phó Lực Lượng Trung Ương, HQ. Đại Tá Vũ Xuân An gọi cho HQ. Thiếu Tá Lê Anh Tuấn : "Bằng mọi cách phải đưa đơn vị rời Tuyên Nhơn". Cùng lúc này, Đại tá An cho Tuấn hay là "Quân Đội mình đã rã ngũ", Tuấn liên lạc lại với HQ. Thiếu Tá Phạm Văn Tạo, Chỉ Huy Phó Liên Đoàn Đặc Nhiệm có mặt tại Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 9 Bộ Binh, để được xác nhận: Bộ Tư Lệnh Hải Quân Sàigòn và Hạm Đội đã ra đi."
Trước hoàn cảnh này, Tuấn, với tư cách sĩ quan thâm niên hiện diện tại căn cứ chiến lược Tuyên Nhơn, đã họp các sĩ quan và các thuyền trưởng lại, tại hầm chỉ huy, và tuyên bố : "Nhân danh Tư Lệnh Hải Quân, tôi tuyên bố giải nhiệm các đơn vị trong vùng trách nhiệm... Mình phải ra khỏi đây, về Bến Lức, hoặc xuôi ra biển". Để có thì giờ thu xếp cuộc lui quân, đơn vị vẫn sinh hoạt điều hòa, các vọng canh vẫn cẩn mật.
Sáng hôm sau 30 tháng 4 năm 1975 căn cứ Tuyên Nhơn vẫn như thường. Quốc Kỳ Việt Nam Cộng Hòa vẫn phấp phới trên cột cờ giữa sân đơn vị. Tất cả quân nhân các cấp toàn căn cứ và thân nhân kể cả đàn bà và trẻ nhỏ độ 250 người, các chiến đĩnh còn hoạt động được của cả 2 Giang Đoàn 64 Tuần Thám và Giang Đoàn 43 Ngăn Chặn là 23 chiếc. Mọi sửa soạn để ra đi rất bình tĩnh, và chu đáo. Vì thế, lúc gần trưa 30 tháng 4 năm 1975, khi Đại Tướng Dương Văn Minh, TổngThống Việt Nam Cộng Hòa tuyên bố : "Tôi yêu cầu anh em chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa hãy bình tĩnh ngưng nổ súng và ở đâu ở đó. ", thì căn cứ Tuyên Nhơn đã sắp sửa hoàn tất để lên đường. Tuân theo chỉ thị nói trên, tất cả các chiến đĩnh của căn cứ đều cắm một mãnh vải trắng trên cần ăng ten, nhưng Quốc Kỳ Việt Nam Cộng Hòa vẫn bay phất phới ở sau lái tàu.
Mọi người xuống tàu vào lúc 5 giờ chiều. Trên bờ lính bộ binh, ở ngoài hàng rào đơn vị đứng đầy. Họ ngơ ngác, cổi áo, buông súng, nhìn theo. Trong đám người ấy cũng có các cán binh cộng sản đội nón cối.... Đoàn tàu đi rất chậm. Chiếc HQ 7773 do Trung Sĩ vận chuyển Nguyễn Văn Lực, đi sau cùng. Chỉ độ nửa giờ đoàn tàu đã ra tới ngã ba kinh Đồng Tiến và sông Vàm Cỏ Tây, rẽ mặt, xuôi theo con nước, đi về phía hạ giòng. Theo anh Lực nói lại : "Tàu tiến thận trọng, lịnh ra là không được khai hỏa, nhưng phải sẵn sàng. Mà, lạ lắm, trước đây ở miệt này, khi đi tuần chỉ thấy bờ sông tối om. Sao mà hôm nay ở hai bên bờ, nhất là bên phía mặt , có nghiã là vùng đất phía Nam căn cứ Tuyên Nhơn, đèn đóm ở đâu mà trùng điệp như sao xa". Vẫn theo lời anh Lực kể : "Ông Tuấn dặn rất kỹ cố rời căn cứ, nếu không đến Bếân Lức được thì ra biển. Trên các chiến đĩnh đồ ăn đem đủ cho 2 đến 3 tuần."
Bỗng trên hệ thống âm thoại chỉ huy, có tiếng nói của địch xen vào rất rành rẽ : "Các anh hãy buông súng xuống, lần lượt từng chiếc một ủi bãi vào bờ bên trái". Đoàn tàu khựng lại một chút và được lệnh cứ tiến. Tiếng nói của địch rõ hơn : "Các anh hãy nghe lệnh của Quân Đội Giải Phóng, buông súng và ủi bãi, từng chiếc một". Đoàn tàu cứ đi. Rồi một trái đạn bùng lên, xanh lè ở phía trước đoàn tàu, và tôi nghe trên máy, (lời anh Lực), số 1 của 43 đã chết". Đoàn tàu như không còn linh hồn nữa, chùng lại. Tiếng lệnh của địch lại vang lên. Tàu tôi, chiếc 7773, đi sau chót, sát bờ bên phải, thấy xe tăng Việt Cộng đen ngòm lội ở phía sau tàu, đang hướng đại bác vào tàu mình. Thế là đoàn tàu lần lượt ghé mũi vào bờ bên trái con sông Vàm Cỏ Tây, dưới ánh đèn pin ra lệnh của địch. Lúc ấy, lúc ông Tuấn tự tử chết bằng súng Colt, vào khoảng 12 giờ đêm ngày 30/4/1975. Ông Tuấn tự tử vì ông không muốn đầu hàng địch, mà dù có hàng địch dễ gì chúng tha mạng cho ông. Còn có 3 người nữa chết vì bị đạn địch bắn ra.
Xác ông Tuấn, theo anh em kể lại, vẫn lời anh Lực, được cuốn trong cuốn drap trắng, và tẩm liệm đêm hôm ấy, vào khoảng 3 - 4 giờ sáng. Người ở gần ông Tuấn, lo lắng cho Ông là anh Uy, Trung Sĩ Vận Chuyển Uy.
Sau này, gia đình anh Tuấn đã từ Mỹ về đến bờ sông Vàm Cỏ Tây tìm mộ anh Tuấn, thấy ngôi mộ đã được dân chúng tự động xây cất rất to, đẹp. Đào lên giấy tờ bọc plastic vẫn còn nguyên. Hài cốt anh đã được hỏa thiêu và đem qua Mỹ. Gia đình Hải Quân đã làm lễ tiếp đón và truy điệu rất trang nghiêm. Nhiều bạn bè, đại diện các đoàn thể đã đến nghiêng mình trước di hài và di ảnh của Một Kẻ Anh Hùng Đã Chết Không Hàng Giặc.

Những Ngày Trong Tay Giặc

Anh Nguyễn Văn Lực, Trung sĩ Vận Chuyển, cựu "Bố Kép" của Giang Đoàn 64 Tuần Thám kể lại:" Lên bờ thì các sĩ quan mình chúng đem đi đâu riêng biệt. Còn tụi tôi, đâu ở đó, vẫn ở dưới tàu. Súng ống, đạn dược vẫn còn nguyên, lúc đầu cũng sợ, sau quen dần. Các nhân viên khác thì chúng cấp giấy cho về nhà, ngoại trừ nhân viên cơ khí và thuyền trưởng, chúng giữ lại. Nhưng các anh em khác, nhà gần, ở Sàigòn, hay đâu đó ở Miền Nam lần lượt trốn về. Nhà tôi tận Đà Nẵng xa quá, không dám trốn. Tàu tôi, (vẫn lời anh Lực) chúng cho 2 người xuống ở cùng, đem theo súng ống. Một anh là Thượng sĩ Điều, đặc công bờ, gốc Nghệ An. Anh Điều nói, đại đội tôi từ Bắc vào, giờ chỉ còn trên 10 đứa. Anh Điều còn nói : "Cách 5 hôm trước khi các anh buông súng, tôi có theo dõi tàu anh, biết anh là "Bố Kép" của tàu. Tôi nhắm B 40 bắn, chưa bóp cò thì các anh đã phản pháo, cành cây trước mặt tôi gãy, chứ nếu chậm chút xíu tàu anh đã tiêu!" Anh Uẩn, Chuẩn úy, đặc công thủy nói : "Chúng tôi được huấn luyện vào Nam để cướp tàu Mỹ "õ. Vẫn lời anh Lực kể : "Tôi phải ở lại với bọn chúng gần 3 tháng, phải lái tàu cho tụi nó đi đây đi đó, có lúc ghé chợ Tuyên Nhơn, ngang ngã ba vào căn cứ. Tàu ghé chợ, gặp mấy người bán hàng quen họ nói : "Ủa, chớ anh "Bố Kép" qua bên này hồi nào. Thì mình chỉ cười trừ cho qua chứ nói sao".
"Bố Kép" tên gọi quen thuộc, vừa thân tình, vừa có chút uy lực của một vị thuyền trưởng chỉ huy một chiến đĩnh của mình trong lửa đạn. Ai được làm thuyền trưởng là một danh dự, thường đã phải trả bằng những gian lao, cực khổ, nhiều khi là máu của chính mình. Trước các thuyền trưởng của Mỹ, được họ gọi là "Bố Kép" có lẽ là chữ Boat Cap mà ra. Anh Lực cũng không biết có phải như thế không, nhưng ai đã là "Bố Kép" là một tay súng cừ khôi, là một chiến sĩ can trường, có thể làm mọi thứ trên chiến đĩnh, nhất là phải biết cách chỉ huy đàn em, những người lăn lộn trong lửa đạn, coi cái chết như một sự tình cờ. "Bố Kép", cái tên lan ra cả một vùng lân cận : Anh A ngon à, sắp làm "Bố Kép".
Anh "Bố Kép" Lực cho hay : "Giang Đoàn 43 Ngăn Chặn và Giang Đoàn 64 Tuần Thám về tay tụi nó, do tên Tám Quốc chỉ huy. Tám Quốc người Mỹ Tho, và đơn vị có tên mới là C.15. Còn tất cả tàu bè của mình tụ về Bến Lức, dưới sự chỉ huy của tên Trần Đối, cứ như tên và chức vụ mà Trần Đối ký trên giấy di chuyển của tôi thì Trần Đối là Tham Mưu Trưởng Công Trường 5 của quân giải phóng".
Được dịp nói chuyện với "Bố Kép" Lực, người viết có hỏi một câu chót : "Anh nghĩ gì về cuộc chiến cũ " Anh Lực nói : "Thì mình là dân phải đi lính. Bên kia cũng thế. Lúc chưa đình chiến thì bắn nhau. Ngưng tiếng súng, gặp lại nhau thấy sao buồn cười quá ". Hiện anh Lực ở San Diego, các con anh đã lớn, thành đạt. Anh làm nghề xây cất, kể như rất thành công.
Tháng 10 năm 1999.

Phan Lạc Tiếp

* Bài này được viết căn cứ trên các cuộc gặp gỡ giữa tác giả và HQ Thiếu tá Lê Anh Tuấn, Trung Sĩ Vận Chuyển Nguyễn Văn Lực. Cuốn Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa Ra Khơi của bà Điệp Mỹ Linh; Cuộc Kháng Chiến Chống Mỹ Cứu Nước của Văn Tiến Dũng.
Trận Đánh Cuối Cùng Của Địa Phương Quân (Quận Thủ Thừa,Tỉnh Long An)

Quốc Thái

nguồn : http://batkhuat.net/van-trandanh-cuoicung-dpq-longan.htm

THƯA CÁC BẠN ,
THỜI GIAN QUA , TÔI CÓ ĐĂNG VÀI BÀI VỀ TRẬN ĐÁNH TẠI KHU VỰC BẾN TRANH CỦA TRUNG ĐOÀN 12 SĐ 7 BỘ BINH VNCH . TRONG LÚC TÌM KIẾM THÊM THÔNG TIN VỀ TRẬN ĐÁNH NÀY , TÔI ĐẢ ĐỌC ĐƯỢC BÀI CỦA THIẾU TÁ QUẬN TRƯỞNG THÙ THỪA , TỈNH LONG AN , THUỘC QUÂN KHU 3 , NÓI VỀ TÌNH HÌNH TRONG KHU VỰC CỦA ÔNG TA TRONG NHỬNG NGÀY CUỐI THÁNG 3 , ĐẦU THÁNG TƯ NĂM 1975 . THỜI GIAN NÀY , TÔI ĐI HÀNH QUÂN Ở TRUNG ĐOÀN 10 SĐ 7 BỘ BINH NÊN KHÔNG BIẾT TÍ GÌ VỀ TÌNH HÌNH TẠI KHU VỰC THỦ THỪA . TÔI NHẬN THẤY BÀI VIẾT CỦA ÔNG RẤT GIÁ TRỊ VÌ :  TRONG KHI NHIỀU TỈNH LỴ, THÀNH PHỐ Ở VÙNG 1 , 2 VÀ 3 ĐẢ  LẦN LƯỢT  BỎ NGỎ TRƯỚC CUỘC TIẾN CÔNG  CỦA QUÂN CSBV VỚI HỎA LỰC HÙNG HẬU CỦA ĐẠI PHÁO 130 LY VÀ CHIẾN XA T-54 ; THÌ TẠI THỦ THỪA , LONG AN DÂN VÀ QUÂN , DÙ CHO PHƯƠNG TIỆN RẤT THIẾU THỐN , ĐẢ ANH DỦNG ĐẨY LUI CÁC ĐỢT TẤN CÔNG Ồ ẠT CỦA BẮC QUÂN  .  NẾU QUÂN CSBV NHỔ ĐƯỢC CÁI GAI KHÓ NUỐT NÀY ,  HỌ SẺ DỂ DÀNG CẮT ĐỨT QUỐC LỘ 4 NHƯNG  CHIẾN THẮNG VÀO NHỬNG NGÀY CUỐI THÁNG 4/1975 CỦA TRUNG ĐOÀN 12 SĐ 7 BỘ BINH (DƯỚI QUYỀN CHỈ HUY CỦA ĐT ĐẶNG PHƯƠNG THÀNH) ĐẢ KỊP THỜI  BẺ GẨY ÂM MƯU NÀY CỦA BẮC QUÂN   - TRẦN ANH TÚ .


v v v v v v

Quốc Thái là bút hiệu của Thiếu tá Đinh Hùng C., một sĩ quan trẻ đầy nhiệt huyết. Trong những năm tháng cuối của cuộc chiến tại Việt Nam, anh giữ chức vụ Quận trưởng kiêm Chi khu trưởng Thủ Thừa tỉnh Long An.
Quốc Thái và gia đình hiện cư ngụ tại thành phố Reston thuộc tiểu bang Virginia. Nhân dịp đọc Đặc San Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hòa
Anh đã nhiệt tình gửi bài đóng góp.
Chân thành cám ơn Quốc Thái và mong có dịp được đọc bài vở của anh nhiều hơn.

Quận Thủ Thừa , tỉnh Long An, nằm dọc theo Quốc lộ 4 khi chúng ta nhìn về bên phải từ hướng Saigon đi xuống qua quận Bến Lức. Thời điểm mà tôi ghi lại những giòng chữ này xảy ra vào nhừng ngày cuối tháng Ba, năm 1975 khi Ban Mê Thuộc vừa thất thủ, áp lực của cộng quân đè nặng trên khắp 4 vùng chiến thuật. Chúng tôi đang ngăn chận đường giây xâm nhập của địch từ vùng Mỏ Vẹt, Ba Thu và Kiến Tường...

Giờ này đại quân của VC đã tràn xuống. trận đánh mở màn làm cho tôi xính vính. Tôi biết chủ lực bọn Cộng sản nằm bên kia biên giới Cam Bốt, nhưng một bộ phận chính đang nằm ở phía bắc xã Long Ngãi Thuận, chúng hăm he muốn "chơi" Tiểu đoàn của Cử. Thiếu tá Cử xuất thân khóa 9 Thủ Đức, là một sĩ quan anh hùng, có tài chỉ huy và biết chỗ đứng của mình nên tôi rất kính trọng và quý mến ông. Tôi đối xử với ông như bạn, xung trận cùng nhau, chia sẻ ngọt bùi nơi trận địa. Tôi triệu Cử về, bàn định là phải tính kế với bọn này. Tôi làm lệnh hành quân dùng tuần giang đưa Tiểu đoàn Cử đi hành quân và thay thế khu này là một đại đội biệt lập. Tiểu đoàn dời đi buổi sáng chẳng ngay trong đêm là đoàn tàu lại bốc đủ Tiểu đoàn đem về Mỹ An Phú, một xã đối diện, để ém quân đợi lệnh. Mưu kế của tôi và Cử có phần thành tựu. Ngay đêm sau, xã Long Ngãi Thuận bị tấn công. Địch chiếm ấp và vây hãm căn cứ hành quân của tiểu đoàn mà hiện chỉ có một đại đội biệt lập trấn đóng. Hai khẩu 155 ly đã kín đáo dời lên xã Mỹ Lạc Thạnh từ trước. Tiểu đoàn Cử sẽ được chia làm hai cánh, một mặt chận đường rút, một mặt tấn công vào hông của địch, đồng thời trong đồn cũng nhận lệnh phản công mãnh liệt. Cuộc chạm súng bắt đầu từ tờ mờ sáng. Sư đoàn 3 Không quân cho một chiếc L19. Tôi yêu cầu quan sát viên ở lại để cho tôi được xử dụng máy bay. Người phi công là dân chịu chơi, bất chấp hiểm nguy, anh ta xuống thấp gần 500 bộ (khoảng 200 thước cách mặt đất) để tôi nhìn rõ hầm hố và khả năng tham chiến của địch. Địch đã kẹt cứng trong ấp là vùng sình lầy nước ròng, không giống như những vùng đất đỏ như Tam Giác Sắt, Bời Lời hay Dương Minh Châu nên không thể đào hầm hố để trú ẩn. Ở đây lộ mục tiêu là chết! Gần 3 tiếng đồng hồ tôi dùng phi pháo, đánh cho địch nhào ra trước khi Tiểu đoàn của Cử có thể tiến quân tiếp địch.

Kết quả sau cùng, Tiểu đoàn của Cử toàn thắng. Mối thù tháng trước đã trả, nhưng vấn đề từ nay có lẽ phức tạp hơn thế nhiều. Một câu hỏi khúc mắc cứ lởn vởn trong đầu tôi. Từ trước đến nay lính Cộng Hòa gọi tụi Cộng sản là "chuột" vì chúng luôn luôn trốn chui trốn nhủi, chỉ nhảy ra cắn trộm như nổ mìn, phục kích hay pháo kích, nay bổng dưng chúng công khai ra mặt, đối đầu đánh lớn với quân mình; có thể là Mỹø yểm trợ chúng tôi yếu, hay chúng muốn đi đến hồi kết của chiến tranh?
Chỉ huy là tiên liệu. Tôi phải lo toan trước khi quá trễ. Lợi dụng hai trận đánh lớn vừa qua, tôi động viên toàn thể quân sĩ từ bộ chỉ huy đến đơn vị, chỗ nào tôi cũng tạo không khí chiến tranh sôi sục. Lệnh tích lũy 60 ngày ăn với nước uống được ban hành, lính tráng hành quân liên miên trừ sĩ quan là không phải chạy, từ hạ sĩ quan trở xuống, nếu cấp trên gọi cấp dưới thì cấp dưới phải chạy, anh nào đi đứng tà tà là bị đưa đi ngay. Tất cả cao ốc, bồn nước, lính phải đặt bao cát, đem đồ ăn dự trữ trên đó. Làng xã nhân dân tự vệ cho vào khuôn phép, không còn đắc nhân tâm gì cả, anh nào lôi thôi bị đá thẳng cánh. Có lần Bộ chỉ huy tập báo động, Chỉ huy trưởng Cảnh Sát coi thường, vẫn để đèn, còn vặn máy thu thanh nghe cải lương trong khi lính Chi khu đang phải chạy vào hầm hố. Lập tức Chỉ huy trưởng Cảnh Sát bị gọi qua để nhắc nhở và cảnh cáo. Ngay ngày hôm sau, đích thân Cảnh sát trưởng phải đi hành quân với Chi khu. Hôm đó Trung tâm Phượng Hoàng lên kế hoạch hành quân cảnh sát ngay vào ổ Việt cộng, và tôi đã yêu cầu ông Thiếu tá Cảnh Sát nhảy tàu với tôi. Nước ngập tới ngực, chưa vào tới bờ đã bị du kích bắn tỉa. Chỉ huy trưởng Cảnh Sát mặt mày xanh lè, không phải vì nước lạnh mà vì mạng sống người cảnh sát đang làm việc ở nơi an lành bỗng dưng ra đây thí mạng "cùi". Sau cuộc hành quân Phượng Hoàng này, mỗi khi Chi khu nổi còi báo động là đèn đóm tắt ngúm và bên cảnh sát kỷ luật hơn ai hết. Mọi người biết là lệnh thật, không còn ai đùa nữa. Chỉ thị ban ra điều được kiểm soát để thi hành nghiêm chỉnh. Tôi mật lệnh cho Đại úy Lộc, Trưởng Ban 4, khi có chiến tranh là lập tức thi hành hai việc: Đem đoàn tàu ra thu kho gạo của ông Ba Bài về nuôi quân và phát cho lính phòng thủ ăn, đồng thời lấy lực lượng trừ bị chiếm cây xăng, lấy xăng cho lính chở quân. Hành động chiếm đoạt của tư này dễ làm tôi bay chức, có khi còn đi tù nữa, nhưng tôi nếu mọi sự xảy ra như dự đoán chắc cái mạng mình cũng sẽ chẳng còn, không lấy thì Việt cộng cũng nhào vô cướp, vô tình mình nhường đồ tiếp tế cho chúng đánh mình. Thà chơi trước, chết tính sau!

Phần lính đã lo xong, phần dân cũng phải động viên tinh thần họ. Đại úy Phước được lệnh tổ chức Tiểu Diên Hồng tại quận để công khai cho dân lành biết là Thủ Thừa đánh Việt cộng đến cùng. Tất cả làng xã, viên chức, tư chức, thầy giáo, dân cử, thân hào nhân sĩ được mời đến rạp hát lớn của quận để dự lễ Tiểu Diên Hồng. Cả cái sân khấu rộng thênh thang, được Đại úy Phước chuẩn bị cho tôi. Phó quận, cảnh sát trưởng, 9 ông xã trưởng, 9 ông chủ tịch đại diện sẽ ngồi đối diện với hội trường. Không khí trang nghiêm và khí thế đấu tranh ngùn ngụt. Tôi tỏ bày tâm tôi thật, lòng tôi thật, thể hiện lên lời nói chân thành và rất mạnh dạn. Tôi không chấp nhận bất cứ một đầu hàng nào, kẻ nào bất kể quân hay dân mà quay lưng lại kẻ thù là bị tôi bắn trước. Hãy mạnh dạn chiến đấu, "sống hùng và chết hùng". Tôi kết thúc những lời ngắn gọn trong một hội trường im phăng phắc. Tôi hiểu người dân dưới kia ưu tư nhiều lắm. Họ đã biết rằng miền Trung vừa thất thủ, quận Tánh Linh đã mất khồng đầy một tháng. Ở cái quận nhỏ này ta và địch đã trao đổi nhau gần 200 mạng người.

Tôi ra về với tiếng hô chào dõng dạc của Đại úy Phước làm mọi người phải đứng lên tiễn chân. Tôi biết là đã để lại sau lưng những người dân nhiều lo âu và ngại ngùng. Tôi nào khác họ? Cũng là con người thì ai cũng có những điều suy nghĩ giống nhau, nhưng tôi bị đưa lên cái thế có trách nhiệm, cái trách nhiệm này chỉ có đánh Việt cộng thì mới chết ít, còn chạy thì chỉ tổ chết nhiều. Chạy sao được? Đánh đã, sống chết tính sau. Quận Tánh Linh là vựa gạo của Quân khu, thế mà Việt cộng bao vây có 3 ngày, cả quận đầu hàng và đói. Bài học này tôi phải thuộc. Tôi đã không ngần ngại viết lệnh rõ ràng cho Đại úy Lộc đi tịch thu kho gạo của ông Ba Bài một khi Việt cộng tấn công.

Đêm 8 rạng 9 tháng 4 năm 1975, một lực lượng Việt cộng đánh vào tỉnh Long An chiếm phi trường Cần Đốt, một lực lượng khác đánh vào bên hông tỉnh chiếm xã Lợi Bình Nhơn của Thủ Thừa. Cuộc chiến bắt đầu. Quả là sau những toan tính của con người có thiên định. Hai cánh quân đánh vào Long An chỉ là để dương đông kích tây để cầm chân quân tiếp viện. Chủ lực địch là công trường 6 (sư đoàn - thực ra cái lối hù của Việt cộng - chúng gọi là sư đoàn nhưng quân số chỉ bằng trung đoàn của ta) nằm phía sau cánh quận 5 cây số. Chúng tung từng toán đặc công tinh nhuệ, táo bạo đánh thẳng vào hông quận qua ngã chợ. Chúng mong giết tôi xong và chiếm Bộ chỉ huy Chi khu làchúng kéo cờ lên, đại quân của chúng sẽ tràn ngập, và với khí thế đó, quân ta phải tan hàng như đã chạy ở miền Trung.

Có thể Đức Tiền quân Nguyễn Huỳnh Đức đang an nghỉ trên mãnh đất này đã thương cho cái công khó nhọc của đám quân dân quận nhà, nên Ngài mới tạo ra những cơ may hy hữu. Bọn cộng sản đã điều nghiên kỹ càng là không bao giờ đoàn tàu đi tuần lại về đậu ở đó trước 6 giờ sáng, nếu chúng đánh vào quận giờ đó thì gần như là lổ trống, chỉ thọc bộc phá phá hàng rào kẻm gai là giết được tôi dễ dàng. Không may, điều nghiên đúng, nhưng sai cho ngày hôm đó, vì nước thủy triều cao, đoàn tàu về bến lúc gần sáng, đúng lúc đặc công di chuyển đến nên vô tình chúng đã bị tao ngộ. Không chịu nổi những khẩu đại liên bên thành tàu, toán đặc công đành lẩn vào dân, chạy dạt ra chợ. Ba đêm trước, toán đặc công Việt cộng đã điều nghiên và thả lục bình để đánh chìm tàu, chiếc tàu đi tuần về đậu chệch trên bãi, phía trước đám lục bình mà Việt cộng đã dấu mìn. Đặc công Việt cộng cố vượt bóng đêm đẩy lục bình ngược con nước để đẩy đám lục bình tấp vô thành tàu. Lính gác nhanh trí thấy lục bình trôi ngược nước bèn nổ súng. Biết bị lộ, tên đặc công trên bờ đã hy sinh hai tên dưới nước bằng cách phải cho nổ quả mìn. Tiếng nổ như trời gầm làm tôi hoảng hồn phóng mình ra khỏi hầm.

Như vậy là cái may thứ nhứt đã giúp cho Bộ chỉ huy thoát chết. Cái may thứ hai: theo thường lệ, Đại úy Khánh, Trưởng Ban 3 ra lệnh cho 200 lính Nghĩa Quân về quận nhận lệnh đi phát quang xạ trường, tránh không cho Việt cộng ẩn núp. Khi toán đặc công dạt ra chợ thì trông quận đã có 200 lính với súng đạn sẵn sàng, Đại úy Khánh chỉ việc điều động cho đánh, công việc xẩy ra nhịp nhàng như ông Trời xếp sẵn . Tính trạng tấn công tràn ngập đã không xảy ra, vì tất cả những chuẩn bị trước đã nhịp nhàng ăn khớp. Từ trong hàng rào phòng thủ, Đại úy Lộc ra liên lạc với đơn vị Thủy Quân Lục Chiến mới về tăng phái, phóng mình lên đoàn tàu trực chỉ nhà máy gạo Ba Bài. Trung đội trừ bị chiếm cây xăng. Bộ chỉ huy của tôi với Nhất kiếm (Ban 1), Nhị hà (Ban 2), Tam sơn (Ban 3), Tứ hải (Ban 4) , Ngũ hổ (Ban 5) và Lục bảo (Ban 6) phân tán ngay vào các cánh quân chiến đấu trong đường phố. Lệnh oang oang của nhiều máy phóng thanh thuộc Chi Tin tức Quận ra lệnh cho tất cả tàu bè dời về phía bên này sông, không cho địch chiếm để vượt sông. Nói là con sông thì hơi quá, nó chỉ là con kinh bề ngang 100 thước nằm ngang quận. Vài tên đặc công Việt cộng chạy lạc vào Thánh Thất Cao Đài đã bị lực lượng chiếm cao ốc hạ sát ngay. Cả toán còn lại bị dồn vào trong rạp hát. Chúng tử thủ bên trong. Cảnh sát dã chiến và tổ tình báo Chi khu đã trổ nóc đánh xuống, giết một mớ và bắt sống trọn ổ. Thiếu tá Tống, Chỉ huy trưởng Cảnh sát tỉnh, đích thân chở tù binh về khai thác. Trong khi đó tình hình ở tỉnh cũng lắng dịu, lực lượng Việt cộng đã bị đánh văng khỏi phi trường Cần Đốt. Vĩnh Đường gọi tôi báo Công trường 5 Việt cộng ở sau lưng nên ông cho 2 tiểu đoàn ĐPQ xuống tăng cường, dàn quân thanh toán bọn chúng. Vừa chiến thắng trận đầu lại bảo toàn được chủ lực, lòng tôi vui sướng vô cùng. Tin tức bay nhanh không tả. Phóng viên, ký giả từ Sài Gòn đổ xuống nườm nượp. Cả Đại tá Cục phó Cục Quân y cũng xuống ủy lạo thương binh.

Hai Tiểu đoàn ĐPQ bây giờ đổ xuống ngập chợ. Cả cái quận lỵ nhỏ bé chứa toàn là lính. Lấy văn phòng quận làm tâm điểm, một tiểu đoàn cánh trái, một tiểu đoàn cánh phải lần lượt qua sông dàn quân xuất phát. Từ trên nóc công sự phòng thủ, tôi liên lạc với cả hai cánh quân. Trên 600 người lính dàn hàng ngang đã tạo một chiều dài cả cây số. Tôi chưa cho lệnh tiến quân vì khi xã Lợi Bình Nhơn thất thủ, Chi khu đã ra lệnh cho Đại úy Hải, Đại đội trưởng Đại đội Biệt lập vượt sông Vàm Cỏ về làm tuyến án ngữ phía cầu Long An để chận đặc công Việt cộng có thể xâm nhập phá cầu, đồng thời cũng để dò xét dọc sông Vàm Cỏ xem Việt cộng có ém quân ở đó không. Hải chạm súng lẻ tẻ chứng tỏ chỉ có du kích quân chận mình. Đây là lúc hai tiểu đoàn được lệnh xuất quân. Trời tháng Tư, chưa vào mùa cầy cấy, đất còn khô và nứt nẻ. Những thửa ruộng bỏ trống đã làm cho quân ta có xạ trường quan sát rất xa. Hai cánh quân liên lạc hàng ngang tiến song song. Từ trên lô cốt, tôi theo dõi bằng mắt và giữ liên lạc máy với hai Tiểu đoàn trưởng. Quân đi khoảng 800 thước thì bắt đầu chạm địch. Điều khủng khiếp nhất là chạm súng trên một tuyến dài cả cây số, hỏa lực địch mạnh đến nỗi đạn cày dưới chân tôi như đàn dế rúc. Đủ loại súng mạnh, cối 61, cối 82 và 130 ly choảng liên hồi về phía bạn. Quân ta chỉ chống trả bằng những vũ khí cá nhân, và là khu dân chúng nên không thể dùng hảo lực pháo binh.

Trời ạ! Không thể ngờ được. Sau những đợt hỏa lực dũng mảnh, cộng quân bắt đầu xung phong và tràn ngập. Chúng ùa lên đen cả cánh đồng trước mặt, cuộc cận chiến không xảy ra, nhưng tấn công biển người vũ bão. Hai tiểu đoàn ĐPQ buộc phải rút về tuyến A. Và chỉ chớp nhoáng là 600 người lính đâm đầu xuống nước. Hai tiểu đoàn tinh nhuệ đã bị địch áp đảo đến nỗi không còn sức phản công. Điềm may mắn cuối cùng là nhờ con sông thiên nhiên chắn lối, nếu không, sự lui quân của hai tiểu đoàn đã lôi theo 60 ngàn dân trong quận Thủ Thừa sẽ thất thủ chớp nhoáng vào tay địch. Tôi đứng như chết sững giữa lằn đạn của quân thù. Sự lâm nguy của tiểu đoàn làm tôi quên cả sợ chết, nếu không phản ứng kịp thì chỉ trong năm, mười phút nữa Việt cộng sẽ tràn đến bờ sông. Chúng sẽ tha hồ xả súng tiêu diệt quân ta đang loi ngoi dưới sông. Tuy nhiên, điều may mắn cuối cùng đã đến, cũng do lòng trời còn thương cái mạng quèn của tôi và đám quân dân, thảng hoặc sự linh thiêng của Đức Tiền quân một lần nữa đã xui khiến ra không chừng. Số là vịnh Thủ Thừa ăn thông với sông Vàm Cỏ, tại đây bị ảnh hưởng của nước thủy triều khi lên khi xuống, và nếu gặp nước ròng thì tàu bè xuống thấp, có khi mũi tàu chưa lên cao bằng bờ đất nên vũ khí trên tàu hoàn toàn bất khả dụng. Trong lúc này vào đầu tháng âm lịch, nước không lên mà cũng không xuống. Nó luôn luôn đầy bờ và giữ nguyên mực. Nhờ vậy khi tôi chỉ thị, đoàn tàu được che dấu từ cái lạch con tiến ào ra xung trận.

Lệnh của tôi rất rõ ràng:"di chuyển trên sông và tác xạ. Mỗi tàu có 6 đại liên 50. Một bên thành tàu là 3 đại liên. Sáu chiếc tàu tuần giang có 18 khẩu đại liên, mỗi phút có thể nhả 6.000 viên đạn, đã di chuyển hàng dọc trên sông và tác xạ nhịp nhàng. Đại đội trưởng Tuần giang nhận lệnh rõ ràng chiếc nào trúng B40 bị chìm là bỏ, không tàu nào được dừng lại để tiếp cứu tàu nào, tiếp tục xạ kích cho đến khi đẩy lui được địch. Đại quân của địch đang hăng tiết xung phong đến điểm chiến thắng, bất ngờ bị hỏa lực quá mạnh của đoàn Tuần giang làm chúng gục xuống như sung rụng. Bọn Cộng cũng phản ứng nhanh, chúng phản công bằng B40, B41 và các loại súng cối thi nhau nổ trên sông, rơi xuống như mưa bão. May mắn cho đoàn tàu ở thế di chuyển nên chưa chiếc nào trúng đạn, nhờ vậy mà hàng rào hỏa lực đã chận đứng được cuộc xung phong khổng lồ này. Đoàn tàu đã tạo một lưới lửa trên sông. Tôi vui mừng cứ đứng ỳ trên lô cốt quên cả sợ chết. Bốn thầy trò tiếp tục trên đỉnh lô cốt mà quan sát và liên lạc. Gần một tiếng đồng hồ sau, hai tiểu đoàn ĐPQ mới ngoi lên khỏi mặt đất, tái bố trí và bắt đầu tiến lên để tiếp tục giao tranh với bọn Việt cộng. Hai tiếng đồng hồ sau đó địch bị đẩy lui hoàn toàn. Cám ơn tất cả những đấng thiêng liêng đã cho bọn Cộng sản chọn cuộc tấn công lúc nước thủy triều không xuống thấp, đã cho đoàn tàu không bị sức mẻ, sáu cái còn nguyên vẹn và tạo ra một chiến thắng lẫy lừng, cứu được Quận và cứu được 600 mạng lính. Địch chẳng còn bao nhiêu đã rút thật xa, không lấy được xác, chúng nắm ngổn ngang đầy một cánh đồng. Trận sống mái nghiêng phần thắng về quân ta, làm các đồn bót nức lòng lên tinh thần, các nghĩa quân bắt đầu làm chỉ điểm cho hai con gà cồ 155 ly pháo kích vào những nơi địch quân lẩn trốn. Một quả đạn 155 ly nặng 45 kg, sức nổ tàn phá và sát hại 50 thước vuông. Với sự chỉ điểm của các đồn bót, buổi chiều hôm đó ta đã tác xạ khoảng 800 quả đạn, thương vong của địch lên cao độ khó mà phối kiểm.

Ngày một ngày hai đã đi qua nhanh chóng. Quận nhà vẫn đứng hiên ngang. Chiến thắng Thủ Thừa đã vang dội cả miền Nam và thế giới. Nước bạn Hoa Kỳ cũng buồn vì muốn đồng minh chết sớm mà còn có những chiến thắng này thì khó "nhá"quá. Đài VOA và BBC đã đặt bản tin là chiến thắng lớn tại Thủ Thừa và phát thanh trên băng tầng của họ.

Nói chung, chiến thắng Long Khánh, chiến thắng Long An đã đem lại phần nào niềm tin cho người dân, người lính. Sau trận thất thủ Ban Mê Thuột, thượng cấp sử dụng danh từ "di tản chiến thuật" để che dấu sự thất trận và tháo chạy của ta, trong khi đó lại bồi thêm bằng tất cả xảo thuật tuyên truyền để lung lạc quân sĩ và dân chúng miền Nam, nào là "ngưng bắn da beo", Mỹ chỉ cho mất Vùng 1 và Vùng 2 thôi, còn Vùng 3, Vùng 4 sẽ được giữ lại. Cứ thế mà người lính chạy dài vì yên trí là Mỹ và chính phủ Sài Gòn đã đồng ý như thế nên tin đồn tung ra tới tấp. Bộ Dân vận cũng như Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị vẫn giữ im lặng một cách đáng sợ. Điều buồn nhất là trong tình thế một mất một còn, lãnh đạo miền Nam không tung được một đòn phản công nào đánh địch để thức tỉnh đồng bào, cứ lặng lẽ để bọn Cộng sản thao túng trên chiến trường, và tuyên truyền mạnh mẽ đến làm tan rã hàng ngũ Quốc Gia.

Chiến thắng lớn ở Thủ Thừa và Long An chỉ là một chiến thắng về chiến thuật nhất thời, không lật ngược được thế cờ, và địch bổ sung quân xố rất nhanh, chỉ hai ngày sau chúng đã tập trung lực lượng, không dại dột tấn công biển người nữa. Chúng nhổ tất cả những đồn bót của ta đóng rải rác trong tỉnh và quận để che tai bịt mắt Bộ chỉ huy. Lý do mà chúng tăng cường nhanh, vì tất cả những đường xâm nhập vào Nam, một khi người Mỹ đã có mật ước, họ bỏ ngỏ hết. Trước năm 1975, một cán binh cộng sản muốn xâm nhập vào miền Nam, hắn phải đi đường bộ, thời gian mất từ 9 đến 16 tháng mới đến được miền Nam. Đầu năm 1975, người cộng sản vào Nam tham chiến chỉ đi mất có 11 ngày. Bọn này được chở bằng xe Molotova, đi xuyên qua đường mòn HCM đến thẳng vùng Mimot, nơi cục R của Việt cộng (Bộ chỉ huy Trung ương cục miền Nam), từ đó bổ sung cho các đơn vị chiến đấu nhanh cấp kỳ.

Liên tục những ngày sau, Cộng sản thay đổi chiến thuật, dùng pháo 130 ly và những súng lớn bắn sập một số cao ốc có quân ta chiếm đóng ở trong thị xã. Hai khẩu đại bác 155 ly bị pháo kích bể bánh xe, không thể di chuyển được. Hai con gà cồ này đành thúc thủ, trực xạ tại chỗ và chờ chết. Phía Bắc đa số đồn bót đã bị thất thủ. Thằng Tám Bụng ở đồn có 12 người lính bị hơn 100 VC tấn công, nó không ngần ngại xin pháo nổ ngay trên đồn. Tôi không đành lòng cứ giữ máy liên lạc cầm chừng và chuẩn bị sẽ cho đạn nổ chụp khi mất liên lạc hoàn toàn. Thằng Nam Lùn có 8 người lính thì 2 chết, 2 bị thương, nó vẫn bình thản chiến đấu cầm chân bọn cộng sản ở bên ngoài.

Lính chết, đồn bị mất, quân ta không có tiếp viện. Máy bay chiến đấu không, trực thăng cũng không nốt vì Vĩnh Đường và 31 đang sử dụng cho mặt trận ở Tân Trụ. Đến ngày thứ tư Saigon (phi trường Biên Hòa đóng cửa) cho được một chiếc trực thăng Workship, tôi leo lên bay lượn để quan sát địch tình, thăm viếng những đồn bót và mấy thằng em còn sống sót. Lòng dũng cảm của những người lính chất phát và tuân hành kỹ luật này làm tôi hãnh diện vô cùng. Trong tiếng trực thăng nổ phành phạch, truyền tin liên lạc theo kiểu nói lóng, chỉ thấy đánh và đánh. Trong cơn phấn chấn đó, bất giác tôi nhớ hai khẩu hiệu mà một người lính đã kể ở một chòi canh cạnh quốc lộ 4: "Dân ta hằng anh dũng; quân ta vẫn oai hùng". Chưa cảm khái được mấy phút thì nhìn lại quận nhà thấy tiêu điều quá, cháy rải rác khắp nơi, những luồn khói đen thi nhau cuộn lên trời. Dân lành sợ đạn lạc đã đổ xô ra phía quốc lộ. Hàng chục ngàn người đói khát chờ đợi sự tiếp tế của chánh quyền.. Tình hình vô cùng rối rắm. Trong cái đầu nhỏ bé của tôi biết bao là chuyện: làm sao ngăn chận Việt cộng, làm sao cứu dân... và làm sao để sống còn. Trực thăng chưa bay được nửa tiếng đồng hồ, người phi công cho biết lệnh Saigon là phải trở về ngay. Chiếc trực thăng đảo một vòng, vứt tôi xuống bải đáp và trực chỉ Saigon mất dạng. Đánh nhau đến ngày thứ sáu, quân ta bắt đầu mệt mỏi, thiếu đạn dược và tiếp liệu. Sài Gòn vẫn bàng quan tọa thị để địa phương tự đánh. Mười giờ sáng, Trung tướng Toàn, Tư lệnh Quân khu đến BCH hành quân của tôi bằng xe jeep. Tôi không thích lối nói "huề vốn" của một số sĩ quan cao cấp ở BCH. Tôi phủ nhận tất cả những lời trình bày của vị Trung tá Chỉ huy trưởng BCH Chiến thuật. Tôi nói với Tướng Toàn rằng tôi trực tiếp chỉ huy trận đánh này trong 6 ngày qua. Thế địch rất mạnh vì chúng bổ sung tổn thất cũng như đạn dược rất nhanh. Lý do tôi còn giữ được quận là nhờ con sông thiên nhiên làm chướng ngại vật. Tôi e rằng nếu địch đem PT-76 hay chiến xa xuống thì Thủ Thừa sẽ thất thủ ngay vì sự kinh hoàng của lính. Ruộng vào tháng Tư khô rang, hai mươi cây số đường chim bay từ Cam bốt, địch dễ dàng chạy chiến xa xuống. Tôi yêu cầu Quân khu, thứ nhất tăng viện thêm quân, thứ hai tăng cường chiến xa và M-113. Trung tướng Toàn ngồi thừ với cặp kính đen trên mắt, không nói một câu. Theo lệnh Vĩnh Đường, tôi tạm giao trách nhiệm chỉ huy chiến thuật cho Trung tá Liên đoàn trưởng BĐQ tăng phái để bước ra lo cơm nước cho cả chục ngàn người dân. Đây cũng là lúc Tướng Toàn chỉ thị cho Đại tá Tường, Trưởng phòng 3 Quân đoàn theo tôi ra quận để điêu nghiên địa thế. Tôi chưa kịp mở bản đồ thuyết trình, pháo nặng của địch đã phóng tới. Đại tá Trưởng phòng 3 lên xe dông tuốt, tôi chạy vội xuống hầm chỉ huy.

Sự mệt mỏi của cả một tuần lễ không ăn không ngủ làm tôi kiệt sức. Tôi dựa lưng vào tường nhưng mắt vẫn không rời lổ châu mai quan sát những diễn tiến của ta và địch bên kia sông. Hai tiểu đoàn thoát chết, biết khôn đã đào hố cá nhân phòng thủ chiều ngang. Tôi không còn một lực lượng nào để phản công ngoài hai tiểu đoàn ĐPQ bị cầm chân tại chỗ. Tình thế này địch sẽ tiến lên chiếm quận và không hề có ý rút. Địch đã bắt đầu pháo gần đến BCH vì lý do đại kỳ VNCH của chúng ta vẫn bay ngạo nghễ trước gió, vô tình làm chuẩn đích cho Việt cộng tác xạ. Nhị Hà đã nhiều lần đề nghị hạ đại kỳ nhưng tôi nhất định không chấp thuận, vì nó là biểu tượng sự sống còn của quận, là niềm tin của chiến sĩ. Họ kiêu hãnh khi nhìn thấy lá cờ nầy mà chiến đấu. Một loạt 130 ly rơi trúng sân cờ. Nhị Hà đã gục tại đây. Một mảnh đạn bay trúng cổ thằng Thành, đệ tử trung thành của tôi, lo lắng cho tôi như một người thân. Cổ họng nó máu phun có vòi. Nó gầm lên như con heo bị chọt tiết, cứ thế chạy từ phòng này qua phòng khác, máu phun tung tóe lên trần nhà. Nó gục xuống và chết khi dòng máu ở cổ ngừng chảy. Một quả 130 rơi trúng Trung tâm Hành quân, ngay trước lổ châu mai mà tôi đang quan sát. Điều lạ là đúng lúc quả đạn này rơi xuống là lúc Trung sĩ Minh - người cận vệ của tôi - bỗng dưng đến trước mặt tôi, quay lưng vào lô cốt. Sức nổ và mảnh đạn theo lổ châu mai bay vào, ghim đầy mình. Anh chồm lên ngã chúi vào người tôi dẫy chết. Cũng đúng lúc đó, một mảnh đạn nữa đâm bổ vào mặt tôi nhanh như một luồng ánh sáng. Trong tốc độ khủng khiếp ấy, rõ ràng nó đâm vào mắt tôi, nhưng như có một bàn tay vô hình nào đã đẩy mảnh đạn vào ngay hốc mắt, ghim vào xương sọ ngay trước mũi và tôi thấy máu mồm máu mũi ộc ra. Trước lúc tôi bất tỉnh, tôi lờ mờ nhận thức được dòng máu nóng hổi trong thân thể Trung sĩ Minh vẫn tiếp tục chảy ướt đẫm người tôi. Tôi lịm dần...

Sau này có dịp nghe kể lại, tôi được biết lúc đó BCH hành quân đang điều động phối hợp lực lượng giải tỏa Tân Trụ đồng thời phản pháo cho tỉnh lỵ. Riêng Vĩnh Đường, ông đang thị sát trận địa trên quốc lộ 4 khi VC đống chốt làm gián đoạn cầu Voi. Đây là quốc lộ huyết mạch tiếp tế chính cho thủ đô Saigon từ miền Tây nên việc gián đoạn này làm ông điên đầu. Theo trù liệu thì có thể lực lượng của Trung đoàn 14 thuộc SĐ 9 BB sẽ từ Bến Tranh di chuyển lên xã Hải Yến, Trung đoàn trưởng cương quyết tuyên bố: "Đêm nay tôi sẽ có mặt ở Phú Lâm".

Được báo tin tôi bị "tróc sơn", Vĩnh Đường (danh hiệu trên vô tuyến của Đại tá Tiểu khu trưởng) và 31 (danh hiểu của Thiếu tá Trưởng phòng 3 TK) đã tức tốc đổi hướng, cho trực thăng bay ngay vào vùng với ý định lấy hỏa lực pháo binh áp đảo địch đồng thời bốc tôi ra khỏi trận địa. Ý định này không thực hiện được vì lưới phòng không 37 ly của địch đan chằng chịt, phi cơ phải bay thật cao và cuối cùng phải về hạ cánh tại BCH. Mãi tới xẩm tối, nhóm phi công thân hữu và 31 đã lại một lần nữa xin Vĩnh Đường cho bay vào vùng. Được chấp thuận, 31 đã hướng dẫn phi cơ bay ngược lên phía Bắc, không bay vòng để lừa địch, rồi dùng hệ thống vô tuyến trên tầng số riêng dặn dò Tam Sơn phối hợp thật đẹp. Nhào qua lưới đạn phòng không, chiếc trực thăng đáp "auto" khẩn cấp và bốc được tôi. Vừa lên khỏi mặt đất là pháo địch rơi ngay bên cạnh. Nhóm phi công và 31, người bạn thân của tôi đã ôm tôi mà reo lên. Phi cơ bay thẳng về Tổng y viện Cộng Hòa. Lúc đáp kiểm lại, phi hành đoàn ngạc nhiên là tại sao phi cơ không nổ rớt khi nó bị trúng đạn nhiều như thế. Hai mươi hai năm dài, ngồi kể lại chuyện này, tôi vẫn tưởng như ngày hôm qua. Vinh quang của tôi là xương máu của những người đồng đội. Sự sống còn của tôi là những sự hy sinh đến mất mạng của những người lính. Trận đánh cuối cùng của đời tôi để bị loại khỏi vòng chiến chỉ là một giai đoạn chiến thuật. Thâm tâm tôi vẫn nghĩ rằng tôi phải đánh một trận đánh thực sự cuối cùng với bọn Việt cộng. Nó thực sự gọi là cuối cùng khi mà bọn bạo quyền Hà Nội không còn tiếp cai trị nhân dân ta, khi mà quyền căn bản của con người ở Việt Nam còn bị chà đạp, thì không có trận đánh nào được gọi là trận cuối cùng.
Dùng xe hơi làm bánh trước cho máy bay gặp sự cố






Máy bay đang chờ đáp xuống thùng xe Pickup truck Nissan
      Đáp xuống phi trường trong tình trạng bị hỏng bánh xe trước. Một máy bay chở khách đã phải cầu cứu đến bộ phận mặt đất. Một chiếc xe Pickup truck Nissan được giao nhiệm vụ tạm làm bánh trước cho máy bay nầy. 
      Một sự phối hợp ăn ý đã thực hiện cực kỳ hoàn hảo cho công tác cứu hộ có một không hai chẳng khác nào trong phim hành động.Mời quý vị cùng chiêm ngưỡng tài nghệ của các bác tài lái xe và lái máy bay.
      * Click vào hình bên dưới để xem chi tiết
           s

      Đây có thể chỉ là một đoạn phim của hãng NISSAN nhằm quảng cáo cho dòng xe Pickcup. Tuy nhiên cũng rất sống động và hấp dẫn đáng xem.