Search This Blog

Friday, September 14, 2012

SỰ TRỔI DẬY CŨA ĐẠO PHẬT/BUDDHA RISING (BÀI HAI)

Đăng trên nguyệt san National Geographic tháng 12 , 2005 .

Tác giả         :  Perry Garfinkel
Hình ãnh      : Steve McCurry
Chuyễn ngữ : Trần anh Tú .

        Có một đạo Phật giáo mới trên khắp thế giới ngày nay . Triết lý cũa đạo này hiện được áp dụng vào các cách điều trị về sức khỏe tâm thần và thể chất (mental and physical health therapies) và vào những cải cách về chính trị và môi trường . Các lực sĩ dùng triết lý này để trau dồi các môn thi đấu cũa họ . Triết lý này giúp các nhà điều hành xí nghiệp quãn lý stress tốt hơn . Cãnh sát cũng trang bị cho họ triết lý này để tháo ngòi nổ những tình huống dể bùng nổ (defuse volatile situations) . Những người đau khổ vì bịnh kinh niên (chronic pain sufferers) áp dụng triết lý này như là một sự xoa dịu (coping salve) . Sự thích ứng hiện thời (contemporary relevance) này đang tạo nên một sự phục sinh cũa đạo Phật ( trigger a renaissance of Buddhism) – ngay tại những nước như Ấn độ , nơi mà đạo này hầu như là biến mất (vanish) , và tại Trung quốc , nơi mà đạo này đã từng bị đàn áp (has been suppressed) .



Để tìm hiễu về tình trạng vô gia cư , ông Jim Bastien đã tham gia một khóa thiền trong ba ngày bằng cách sống không có đồng xu dính túi trên các đường phố cũa TP New York . "Tôi đã cãm nhận thế nào là vô hình (vì không ai biết mình là ai - TAT) " , ông Bastien nói ; là một người điều hành cũa một công ty , ông thường là tâm điễm cũa mọi chú ý (xem hình dưới) . Người Phật tử nhấn mạnh tính thống nhứt cũa cuộc đời . "Ảo tưỡng cũa sự chia ly/chia cắt , " ông nói , "là nguồn gốc cũa tất cã đau khổ cũa con người . "

         
         Đạo Phật hiện không chĩ dành cho các nhà sư hay các người ở phương Tây có thời giờ hay lợi tức dư dã (disposable time and income) để học hỏi những gì từ phương Đông (dabble in things Eastern) . Các tín đồ Thiên chúa giáo và Do thái giáo thực hành triết lý này . Những người Mỹ gốc Phi châu ngồi thiền bên cạnh các người Mỹ gốc Nhật . Chĩ riêng tại nước Mỹ , một vài chuyên gia ước lượng rằng , có gần ba triệu người theo đạo Phật . Và theo một khảo sát năm 2004 , hơn 25 triệu người Mỹ tin tưởng rằng triết lý cũa đạo Phật đã có ãnh hưỡng quan trọng trên đời sống tâm linh cũa họ .
       Chương trình Dưỡng lão Thiền (Zen Hospice Project) là một ví dụ cũa “đạo Phật phụng sự xả hội hay "đạo Phật dấn thân" (socially engaged Buddhism) , một thuật ngữ tạo bởi sư ông (Buddhist monk) Thích Nhất Hạnh , đã rời Việt nam từ thập niên 1960 vì những hoạt động phản chiến bất bạo động . Vẫn còn dấn thân (still engaged) ở tuổi 79 , ông đã về thăm quê hương ba tháng trong năm nay – kỹ niệm 30 năm ngày Cộng Sản làm chũ Việt nam – để truyền bá triết lý đạo Phật tại nơi mà ông từng là khất sĩ (pariah) .
        Tại miền Tây Nam nước Pháp , ở trung tâm thiền cũa Làng Mai (Plum Village) , ông thường xuyên mời (host) nhiều nhóm trong đó có các nhóm người Palestine và Do thái dự các buổi hội thảo (workshop) để tìm giải pháp cho xung đột và hòa đàm (conflict resolution and peace negotiation) . Những buổi hội thảo này thường bắt đầu với sự thù nghịch (animosity) , sư ông nói với tôi , và thường kết thúc bằng những ôm hôn (embrace) .
        “ Những cuộc hội thảo này khởi đầu bằng một câu châm ngôn cỗ : ' Không làm điều gì hết , chĩ ngồi đó thôi', “ sư ông nói với giọng nhẹ nhàng (wisp of voice) . Dáng người mãnh khãnh (rail-thin) với tai to và mắt sâu (deep-set eye) , sư ông ngồi trên hành lang cũa ngôi nhà tranh (the porch of his cottage) nhìn ra vườn nho giống Bordeaux xanh rì , “ Với công tác phụng sự xã hội này , đầu tiên bạn phải học những điều Phật dạy , là để tâm yên tĩnh . Kế đó , bạn đừng hành động gì cã ; hành động sẽ cuốn hút bạn (you don't take action ; action takes you) .
         Tất-đạt-đa Cồ-đàm (Siddhartha Gautama) - sinh năm 563 và chết năm 483 trước Công nguyên , thọ 80 tuổi - người sau này được biết như là đức Phật (Buddha) , đã ra đời vào khoãng 500 năm trước Công nguyên gần chân rặng núi Hy mã Lạp sơn , là con cũa một vị vua trong khu vực . Trong những thế kỷ sau khi ngài qua đời , khi tiếng tăm ngày càng phát triển , sự thật và huyền thoại bện vào nhau (fact intertwine with myth) , và nhiều truyền thuyết về đức Phật đã ra đời (a legendary Buddha was born as well) . Theo một truyền thuyết , đức Phật đã khoan thai bước ra từ hông cũa mẹ ngài (toddle out of his mother's side) khi mới sinh và đi bảy bước trong bốn hướng (cardinal direction) , với hoa sen xuất hiện dưới chân .
         Tuy nhiên , phần lớn các truyền thuyết đồng ý ở điểm , ở độ tuổi 29 , vị hoàng tử đã có vợ này , thoát khỏi ảo tưởng về sự giàu có cũa mình (disillusion with his opulence) , mạo hiểm rời bỏ (venture) lâu đài và lần đầu tiên thấy được (encounter) sự già lảo , bịnh tật , và chết chóc . Sau khi thấy được những thực tế đau khổ cũa cuộc đời , ngài quá xúc động đến độ ngài đã rời tòa lâu đài tiện nghi để tìm cách chấm dứt sự đau khổ cũa con người . Trong sau năm , ngài đã chịu đựng những thiếu thốn (withstand all the deprivations) mà những người tầm đạo như ngài đã áp dụng – như nhịn đói , chiêm nghiệm sự tĩnh lặng , sống một mình trong một cái hang – cho tới khi ngài nhận ra rằng ngài đã ko tìm thấy cái mà ngài muốn .
         Phải là một con đường khác , ngài nghĩ như vậy , một “con đường ở giửa “ lối tu quá sung sướng và lối tu quá khắc khổ (indulgence and asceticism) . Ngài đã quyết định ngồi thiền định (sit in meditation) dưới một trong những bóng cây đa lớn (broad pipal trees) – nằm rãi rác trên bình nguyên sông Hằng cho tới khi tìm câu trả lời . Ngài đã xem xét những ý tưỡng cũa ngài để khám phá làm thế nào và tại sao con người thường tạo ra sự đau khổ về tâm thần cũa chính họ . Từ dưới bóng cây này , ngài đã trở thành Phật , với nghĩa đơn giản là “người đã giác ngộ” (enlightened one) . (Cây này , tên khoa học là Ficus religiosa , hiện nay được biết như cây đồ đề/bodhi tree) . Cho tới khi ngài chết ở tuổi 80 , đức Phật đã đi lại theo hành lang (corridor) mà nay là các bang Bihar và Uttar Pradesh cũa Ấn độ , và chia sẽ những hiểu biết (insight) cũa ngài với tất cã những ai muốn nghe .
       Những tư tưỡng cũa ngài đã không dựa vào niềm tin (faith) , như trong các tôn giáo khác , nhưng dựa vào sự quan sát qua kinh nghiệm (empirical observation) , đã bắt đầu có từ khi ngài đi ra khỏi hoàng cung . Ngài đã tìm ra Tứ Diệu Đế (Four Noble Truths) :
  1. Có đau khổ trong thế giới này , hoặc là tinh thần hay là thể chất .
  2. Đau khổ xãy ra khi người ta bám víu/gắn bó với dục vọng cũa họ (too great an attachment to one's desires) .
  3. Khi triệt tiêu nguyên nhân này – sự bám víu/gắn bó - bạn có thể triệt tiêu đau khổ .
  4. Có một phương pháp đễ triệt tiêu nguyên nhân này , được gọi là Bát Chánh Đạo (Eightfold Path) , một hướng dẫn để có được hành vi và tư tưởng “đúng” . Bát Chánh Đạo là một kim chĩ nam về tinh thần đưa ta tới : chánh kiến/ right views, chánh tư duy / rights intent/thought) , chánh ngữ /right speech , chánh nghiệp (right conduct/right action) , chánh mạng (right livelihood) , chánh tinh tấn (right efort) , chánh niệm (right mindfulness) , và chánh định (right concentration) .
       Một trong những thực hành quan trọng cũa Bát Chánh Đạo là thiền định . Dù cho kỷ thuật này khác nhau giửa các giáo phái – ngồi một mình hay trong một nhóm , nhìn vào tường (diện bích) hay người hướng dẫn về thiền (fellow meditator) , mắt nhắm hay mở hé (slightly open) , trong im lặng hay tụng kinh (chanting phrase) – các cách thức đều bắt đầu bằng cách chú ý sát sao (close attention) từng hơi thỡ cũa mình . Không có bất cứ cái gì thần bí hay thuộc về thế giới bên kia (mystical or other-worldly) trong điều này , không có sự lơ lững trên không (levitation) , không có kinh nghiệm xuất hồn (out-of-body experience) . Với mổi hơi thở ra và vào sự nhận thức/quán chiếu/awareness cũa chúng ta trở nên tinh tế hơn (more refined) , tập trung hơn (more focused) .
       Khi thở vào … bạn sẽ nhận thức được các cãm giác (sensation) cũa cơ thể bạn , và bộ phận dể sao lãng nhứt cũa bạn , đó là ý nghĩ/tinh thần/niệm/mind . Khi thở ra … bạn cãm nghiệm sự căng thẳng (tension) cũa cơ thể bạn được nhã ra/phóng thích , và bạn cố gắng để đưa cái ý nghĩ/tinh thần/niệm đang lang thang cũa bạn trở vào hơi thở . Khi thở vào … không khí mơn trớn (tickle) đầu mũi cũa bạn . Khi thở ra … cơn đau ở đầu gối cũa bạn giảm đi (subside) , nhưng ý nghĩ/tinh thần/niệm vẫn còn đi lang thang (meander) . Khi thở vào …tôi có nên làm điều gì hữu ích hơn trong lúc này không ? Khi thở ra … ai là ”tôi” trong ý nghĩ vừa rồi ? Khi sự thiền định này càng tinh tế hơn (with ever more subtlely) , dù có lúc bạn đau đớn hay vui sướng , nhưng cuối cùng bạn sẽ nhận ra điều mà đức Phật đã nhận thức được . “Bạn là cái mà bạn suy nghĩ,” ngài nói .
        Đức Phật đã không hề muốn ý tưỡng cũa ngài thành một tôn giáo ; thực tế ngài đã khuyên chúng ta không nên đi theo bất cứ con đường hay sự hướng dẫn nào mà ko tự mình thử nghiệm (test it personally) . Những lời cuối cùng cũa ngài trước khi chết , được kễ như sau : “ Bạn hãy tự mình đốt đuốc soi đường cho chính bạn.” Tuy nhiên , trong vòng vài trăm năm sau khi ngài qua đời , những lời dạy cũa đức Phật ngày càng có nhiều người theo . Ngày nay , với 379 triệu tín đồ , Phật giáo là tôn giáo đứng hàng thứ năm trên thế giới , sau Thiên chúa giáo với 2,1 tĩ tín đồ , Hồi giáo với 1,3 tĩ , Ấn độ giáo với 870 triệu , và tôn giáo cổ truyền cũa Trung Hoa (Khỗng giáo) với 405 triệu . 



Mọi người tụ họp ở nhà ông Paul Pryde tại Washington , D.C. , để thực hành Soka Gakka , một trong những giáo phái xuất phát từ nguồn cũa đạo Phật : đó là những lời dạy từ 2.500 năm trước cũa Sĩ đạt ta Gau Ta Ma . " Bạn có hạnh phúc hay không , đều do nhận thức cũa bạn đối với hoàn cãnh/tình huống ; chứ không phải là từ những hoàn cãnh/tình huống này (Whether you're happy or not has less to do with circumstances than with how you perceive them) , ông Pryde nói . " Đạo Phật cung cấp cho bạn một phương thức/chế độ/regimen để bạn sống một cuộc sống hạnh phúc hơn . "



Tranh thủ giờ nghĩ từ một thế giới bận rộn , các người dân New York này đến Trung tâm Thiền Shambhala để thiền tập thể .





Thực phẩm đóng hộp , sô-cô-la , ngay cã chip khoai tây - hầu như mọi tặng phẩm làm từ đồ chay đều được đón nhận bởi các vị sư cũa tu viện (abbey) Shasta ở bắc California  (gần ranh giới với bang Oregon) . Đổi lại , họ sống đơn giản và cố gắng đè nén những dục vọng khiến con người sa ngã .
 
       Một số người đã chĩ rỏ/chứng tỏ rằng Phật đã đúng , rằng ta không nên xem đạo Phật là một tôn giáo nhưng nên là một triết học hay một dạng tâm lý học . Sau cùng , không như các tôn giáo khác , không có nhân vật tối thượng (supreme being) , và đạo Phật khuyên bạn nên đặt câu hỏi/chất vấn – hay thách thức – giáo quyền/giáo hội/authority .
       Có nhiều người trong thế hệ cũa tôi , trưỡng thành từ nữa sau cũa thế kỹ 20 , đã bị lôi cuốn bởi những điểm trên cũa đạo Phật . Đạo Phật không giáo điều (non-dogmatic) (chúng tôi ko tin vào giáo quyền/distrust authority) ; đạo Phật chĩ dựa trên bằng chứng mà bạn có thể kiểm tra/test với chính giác quan cũa bạn (chúng tôi đang ở thời đại mà khoa học là thượng đế mới) ; đạo Phật gợi ý rằng chính bạn , chứ không phải quyền lực bên ngoài bạn , quyết định về hạnh phúc cũa bạn (chúng tôi là những người ở tuyến đầu/front line cũa thập niên 1970 , còn được gọi là Me Decade) ; đạo Phật đã xem ý tưỡng/tinh thần cũa chúng ta vừa là chướng ngại vừa là chìa khóa để thực sự hiểu về chính chúng ta (chúng tôi xử dụng phân tâm học hay bác sĩ Freud) .
      Trong khi nhiều người Âu châu hay Mỹ bị lôi kéo những lễ nghi hoa mỹ và phức tạp (ornate and complex ritual) cũa Phật giáo Tây tạng (Tibetian Buddhism) hay Thiền cũa người Nhật (Japanese Zen) , những người khác hình như thích sự đơn giãn cũa Phật giáo Tiểu thừa (Theravada Buddhism) cũa vùng Đông Nam Á . Từ truyền thống này , tôi thực hành vipassana , thiền định “chánh niệm” (insight/mindfulness) . Điều này tuy ko giúp tôi đạt được giác ngộ/enlightenment – nhưng đã giúp tôi có cái nhìn rỏ hơn đối với các câu hỏi sau đây – mà tôi vẫn còn thắc mắc : Tôi là ai ? Tại sao tôi lại ở đây ? Làm thế nào tôi có thể đạt được hạnh phúc lâu dài ?
          Để minh chứng (in a tribute) cho tính thích ứng/adaptability cũa đạo Phật , kỹ thuật thiền định mà tôi đang áp dụng đã trở thành một chương trình cải tổ lao tù đầy sáng tạo đang phát triển khắp Ấn độ .
       “ Tôi không ở tù , mà đang thực hành vipassana (thiền định chánh niệm) , “ tù nhân Hyginus Udegbe nói . Đã chờ đợi 4 năm rưởi để chờ kêu án (to be heard) về tội sỡ hữu cocaine , anh Hyginus , người Nigeria , bị giử tại Tổ hợp Lao tù Tihar ở New Delhi . Đây là một trong những trại tù lớn nhứt Á châu , với gần 13.000 tù nhân , hơn hai lần khả năng cũa nó . Cuộc sống quá chật chội , điều kiện vệ sinh (sanitation) ko đầy đũ , và một ban giám thị đôi khi phải dùng đến (resort) trấn áp và đối xử độc ác (oppress and dehumanize) các tù nhân đã biến trại này thành một địa ngục sống với nhung nhúc tù nhân .
        Nhưng đối với Hyginus và hàng ngàn tù nhân khác ở Ấn độ , thực hành thiền định chánh niệm đã biến đỗi trại tù này thành một ốc đão đễ tự suy gẫm (self-reflection) và phục hồi (rehabilitation) . Cứ hai tuần thì có khóa học vipassana trong mười ngày ở một khu biệt lập và im lặng thuộc Trại tù số 4 . Tù nhân có thể tham dự khóa học mỗi ba tháng và nhiều người đã tham gia .
         “ Tôi bị áp huyết cao và mất ngũ , “ anh Hyginus , một người ngực to , đầu hói , cao sáu bộ Anh (1,83 m) có dáng dấp một đấu thũ hơn là một người học thiền . Sau lưng chúng tôi , được vẽ trên một bức tường cao là một bánh xe màu vàng , biểu tượng truyền thống cũa giáo lý cũa Phật , hay dharma (pháp) . “Sau khóa thiền đầu tiên ở đây, “ Hyginus nói , “áp huyết tụt xuống , và tôi đã ngũ 10 giờ mỗi tối . Trước kia , tôi thường nóng nãy (quick temper) ; nay tôi cảm thấy mình giống như bồ câu , rất hiền (peaceful) ; tôi rất hạnh phúc . “
       Tôi còn ngạc nhiên hơn (struck even more) khi nói chuyện với một người 14 năm làm giám thị trại tù Tihar . Ông ta đã dự ba khóa thiền ở đây , hoàn toàn tự nguyện . “ Tôi muốn tự tôi trải nghiệm những điều mà tôi nghe nói về vipassana , “ ông ta kể cho tôi . “ Trước khóa thiền này , tôi thường đánh tù nhân . Tôi đã căng thẳng đến độ đã biến mình thành một quái vật . Sau khóa thiền , tôi cãm thấy mình nhân đạo hơn (more human) . Giờ đây , nhiều tù nhân đến với tôi để hõi ý kiến (for counseling) .
      " Chúng ta đều là tù nhân – cũa ý tưỡng/tinh thần/mind cũa chúng ta , " ông Satya Narayan Goenka , một doanh gia người Miến điện 80 tuỗi nay trở thành một thày dạy thiền ở Ấn độ ; ông là người dẩn đầu sự trổi dậy (resurgence) cũa vipassana ở Ấn độ . “ Có nơi nào để nhận ra điều này tốt hơn là sau chấn song sắt ? “ Thật vậy , trên các trại tù trên toàn thế giới , các nhóm thiền nay thường xuyên gặp nhau . Thực hành các kỷ thuật này , các khảo sát cho thấy , tù nhân sẽ giảm bớt nổi đau khổ cũa họ và ít gây sự (inflict less) với tù nhân khác .
       “Tôi ko thuyết giảng đạo Phật , “ Goenka nói với tôi một cách dứt khoát (emphatically) khi tôi gặp ông tại nhà ở Mumbai . Ông ta là một người to nhưng thanh nhã (graceful) , với một giọng trầm oang oang (booming bass) . “ Tôi ko có ý chuyển đổi một người từ đạo này sang đạo khác . Tôi chĩ quan tâm chuyển đỗi người ấy từ đau khổ sang hạnh phúc , từ trói buộc (bondage) sang giaỉ thoát , từ độc ác sang sự thương cãm (compassion) .
       “ Không có gì bí ẩn trong vipassana , “ ông ta tiếp tục với tiếng cười khúc khích (chuckle) với cái bụng to lắc lư . “ Vipassana có nghĩa " thấy mọi sự vật như thật bản chất của chúng ngay trong lúc quan sát " . Sau khi theo dỏi hơi thở trong vài ba ngày , bạn bắt đầu để ý đến các cãm giác cũa bạn . Bạn nhận ra một cách nhanh chóng rằng bạn đã bị ám ãnh bởi những sự thèm muốn (cravings) – thực phẫm , sự nồng hậu (warmth) , tất cả mọi loại thèm muốn – và ác cãm (aversion) với những điều mà bạn ko thích . Rồi bạn nhận ra tất cã đều là vô thường . Mọi sự đều thay đỗi . Từ những nhận thức đơn giản này , được khám phá bởi mọi người bắt đầu từ đức Phật , một triết lý cuối cùng được mở ra . “ (còn tiếp) 
 

San Jose ngày thứ hai 10 Sep 2012 lúc 0938 pm , sau ba ngày liên tiếp bỏ công sức để dịch thuật bài báo này . 





No comments:

Post a Comment