SỰ
TRỔI DẬY CŨA ĐẠO PHẬT/BUDDHA RISING (PHẦN BA) .
Đăng trên
nguyệt san National Geographic tháng 12 , 2005 (từ trang 92 –
108) .
Tác giả
: Perry Garfinkel
Chuyễn ngữ : Trần anh Tú .
Chuyễn ngữ : Trần anh Tú .
Khi đạo Phật rời khỏi Ấn độ , đã đi
theo ba đường . Về hướng nam , các nhà sư đã đi bộ
hay bằng thuyền tới Sri Lanka và vùng Đông Nam Á . Về
phía bắc , họ đã truyền đạo qua vùng Trung Á và đi
dọc theo Con đường Tơ lụa vào Trung quốc , từ đó cuối
cùng đã truyền tới Hàn quốc và Nhật bản . Sau đó ,
đạo Phật đã vượt qua rặng Hy mã Lạp sơn để vào
Tây tạng . Trong mọi nước , phong tục địa phương và
vũ trụ học
(cosmology) đã hợp nhứt
với phần căn bản cũa đạo Phật : ma
thuật (magic) và những mặt nạ cũa
các lạt ma đeo khi đánh nhau với ma quỷ tại Tây tạng ,
sự khổ hạnh cũa một sư ông thuộc Thiền tông (Zen)
ngồi tĩnh lặng như một hòn đá trong một ngôi vườn
Nhật (ãnh dưới) mà sạn cát được cào rất đẹp .
Qua nhiều thế kỹ , đạo Phật đã phát triển thành một phong cách toàn diện (inclusive style) , một lý do khiến nó tồn tại rất lâu và trong nhiều nền văn hóa khác nhau như thế . Nhiều người đôi khi so sánh đạo Phật như nước : nó tĩnh lặng , trong suốt , lấy hình dạng và màu sắc cũa cái bình mà nó được đổ vào .
Và tuy vậy ngay từ lúc bắt đầu , sự truyền
bá cũa đạo Phật – một quá trình hòa bình – đã định
kỳ gặp sự thù nghịch . Tại Trung quốc , vào năm 842
sau Công nguyên , hoàng đế Vũ
Tông ( Wuzong ,
814-846) đời
nhà Đường
bắt đầu bách hại các tôn giáo ngoại lai . Vào khoảng
4.600 tu viện bị tiêu hủy , nhiều công trình nghệ thuật
vô giá bị phá hủy , và khoãng 260.000 sư ông và sư nữ
bị buộc phải hoàn tục .
Lịch sử đã lập lại khi đãng Cộng sãn
Trung quốc đàn áp đạo Phật – rỏ ràng nhứt là ở
Tây tạng . Theo Chiến
dịch quốc tế vì Tây tạng
(International Campaign for Tibet) , kể từ 1949 , hơn 6.000 tu
viện , tu viện dành cho nữ , và đền đã bị phá sập
và ít nhứt 500.000 người Tây tạng đã chết vì tù đày
, tra tấn , đói và chiến tranh . Nhưng ngày nay đạo Phật
tại Trung quốc , giống như bông sen mọc lên từ bùn ,
đang tái xuất hiện
. Với hơn 100 triệu
tín đồ , đấy là một trong những
tôn giáo phát triển nhanh nhứt tại nước này .
Ãnh trên:
"Để thấy
mọi sự vật như thật bản chất của chúng ngay trong lúc
quan sát " -
là một mục tiêu cũa một sinh viên tại TQ đang cũng cố
tinh thần và thể xác dưới sự theo dõi nghiêm khắc cũa
một sư phụ về công phu Thiếu lâm . Đó cũng là mục
tiêu cũa hàng triệu tín đồ mà cuộc đời dựa vào/tin
vào câu nói cũa đức Phật :
" Với
tư tưỡng chúng ta tạo nên thế giới"
(With our
thoughts we make the world) .
Bà Trần
hiểu Húc (Chen
Xiaoxu) là một nhân vật nổi bật
- mà ko ai ngờ được - cho sự phục sinh này .
Ở tuổi 39 , bà cầm đầu một trong những hảng quảng cáo hàng đầu cũa Bắc kinh , Công ty Quảng cáo Thế bang Bắc kinh (Beijing Shipang Lianhe Advertising) (doanh thu hàng năm trên 31 triệu đô -. người dịch) , nhưng bà được biết nhiều hơn như là một cựu ngôi sao cũa truyền hình Trung quốc . Bà bắt đầu hảng này vào đầu thập niên 1990 , khi nghành quảng cáo ở Trung quốc ở giai đoạn phôi thai , sau đó sự thành công đã vượt quá ước vọng cũa bà . “Một khi đã nếm mùi vị cũa thành công , tôi luôn luôn muốn những biểu tượng cũa đẵng cấp ngày càng nhiều hơn , ngày càng lớn hơn , “ bà kể lại cho tôi , trong khi chúng tôi ngồi trong phòng họp cũa công ty cũa bà , nằm trong một cao ốc hiện đại ở Bắc kinh . Cổ dài và nét mặt thanh tú cũa bà làm tôi nhớ tới (nữ tài tử Mỹ) Audrey Hepburn , mà ãnh chân dung treo trên tường sau lưng bà , nhưng cặp mắt ấm áp , đồng cãm cũa bà lại làm tôi nghĩ tới những bức tranh và tượng , mà tôi đã thấy , cũa Quan Âm (Guanyin) , vị Phật bà cũa Trung quốc , tượng trưng cũa sự thương xót/lòng từ bi .
Ở tuổi 39 , bà cầm đầu một trong những hảng quảng cáo hàng đầu cũa Bắc kinh , Công ty Quảng cáo Thế bang Bắc kinh (Beijing Shipang Lianhe Advertising) (doanh thu hàng năm trên 31 triệu đô -. người dịch) , nhưng bà được biết nhiều hơn như là một cựu ngôi sao cũa truyền hình Trung quốc . Bà bắt đầu hảng này vào đầu thập niên 1990 , khi nghành quảng cáo ở Trung quốc ở giai đoạn phôi thai , sau đó sự thành công đã vượt quá ước vọng cũa bà . “Một khi đã nếm mùi vị cũa thành công , tôi luôn luôn muốn những biểu tượng cũa đẵng cấp ngày càng nhiều hơn , ngày càng lớn hơn , “ bà kể lại cho tôi , trong khi chúng tôi ngồi trong phòng họp cũa công ty cũa bà , nằm trong một cao ốc hiện đại ở Bắc kinh . Cổ dài và nét mặt thanh tú cũa bà làm tôi nhớ tới (nữ tài tử Mỹ) Audrey Hepburn , mà ãnh chân dung treo trên tường sau lưng bà , nhưng cặp mắt ấm áp , đồng cãm cũa bà lại làm tôi nghĩ tới những bức tranh và tượng , mà tôi đã thấy , cũa Quan Âm (Guanyin) , vị Phật bà cũa Trung quốc , tượng trưng cũa sự thương xót/lòng từ bi .
Dần dần , bà nói , tôi nhận ra cãm giác trống
rổng mà rất nhiều người trải
nghiệm khi họ có những thứ gì mà họ muốn . Trong đạo
Phật , sự tham lam/thèm muốn có một biệt danh : Ma
Đói , một sự thèm muốn mà
bạn ko thể nào thõa mãn được .
“ Dù tôi có tất cã – xe to , nhà đẹp , du
lịch bất cứ nơi nào tôi thích , được bao quanh bởi sự
nổi tiếng và rất nhiều hàng xa xỉ , mà tôi chia sẽ
với gia đình tôi – Nhưng không biết làm sao , tôi vẫn
cảm thấy không hạnh phúc .”
Thế rồi , có người đã cho bà Chen một quyển
sách về cuộc đời và giáo lý cũa đức Phật , và bà
đã trở nên một người nghiên cứu chăm chĩ về đạo
Phật . Giờ đây , một bức tường cũa văn phòng chĩ
toàn màu trắng cũa bà được dành riêng để treo hình
cũa sư phụ cũa bà , Chin
Kung ,
cũng như những tượng và tranh về đạo Phật . Các nhân
viên cũa bà đã biết cách xin-gọi-lại-sau với những cú
phone trong giờ ăn trưa , khi bà bỏ ra một thời gian ngắn
để thiền định hay nghe nhạc Phật giáo .
Một người Phật tử trong một nghề nghiệp
mà mục tiêu là kích thích lòng tham muốn cũa Ma Đói ?
Một điều ít ai chú ý là một con người cũa công chúng
như Chen Xiaoxu lại đang công khai theo đạo Phật trong một
Trung quốc cộng sản . (Chú
thích cũa người dịch : Hai năm sau
cuộc phỏng vấn này (2007) , bà đã qua đời vì ung thư
vú ở tuổi 41)
.
Trong khi đạo Phật trở lại Trung quốc
, đạo lại mất sự hấp dẫn/lôi cuốn ở Nhật , nơi
được xem là nguồn
suối/wellspring (cũa đạo Phật) đối
với một số người phương Tây .
“Nếu đạo Phật tại Nhật ko đạt được
những nhu cầu đang thay đổi cũa xã hội hiện đại ,
đạo này sẽ tàn lụi , Giáo sĩ (Rev.) Yoshiharu
Tomatsu cũa Viện Nghiên cứu Phật
giáo Jodo Shu ở Tokyo nói .
Thuộc thế hệ thứ ba cũa Tịnh
độ Tông Jodo Shu (Jodo
Shu Pure Land) – một giáo phái đã
có ở Nhật 800 năm và đặt niềm tin vào sức
mạnh cứu độ cũa Phật
A Di Đà , một bậc đã giác ngộ ,
hơn là thông qua thiền định - vị thày tu tuy 50 tuổi
nhưng vẽ mặt trẻ con này hiện cai quãn ngôi đền
Shinko-in . Chúng tôi hớp trà xanh trong một ngôi đền gỗ
làm từ thế kỷ 16 , nằm dưới chân cũa tháp Tokyo , hình
ãnh biểu tượng cũa sự hiện đại về kỷ thuật cũa
nước Nhật . Là một DJ
(disk-jockey , người giới thiệu đĩa hát) cho một club
thời ở đại học , Tomatsu đã nuôi dưỡng giấc mơ trở
thành một người điều hành trong kỷ nghệ âm nhạc ,
nhưng thay vào đó , ông đã có bằng cao học về thần
học (divinity) tại Đại học
Harvard . Khi ông ko mặc 'com-lê' hay áo choàng (robe) đen ,
ông ta mặc quần ka ki và quấn quanh cổ cái áo len dài
tay màu lam với tay áo cột vào nhau , kiểu Ivy League .
Phần lớn người Nhật là “Phật tữ khi có
đám tang” , ông nói , ám chĩ họ chĩ tham dự trong các
nghi lễ Phật giáo khi có ai chết . Với sự tiến triển
nhanh chóng và tính cạnh tranh cũa xả hội Nhật , giới
trẻ tìm thấy rất ít sự hổ trợ dể xúc cãm hoặc ý
thức cộng đồng trong những nghi lễ cổ xưa cũa Phật
giáo truyền thống .
“Thật mĩa mai , “ Tomatsu nói , Trong khi nước
Nhật học hỏi phương Tây
cách xử lý về văn hóa , họ lại
ko tiếp thu Phật giáo phụng sự xã hội – một điều
rất quan trọng trong giới Phật tử ở phương Tây . “
Thực vậy , rất mĩa mai : Nhiều người phương
Tây đầu tiên biết đến Phật giáo qua Thiền tông (Zen)
, nhánh Nhật bãn cũa Thiền tông Trung quốc . Thiền tông
hay Zen
được phổ biến bởi Thế hệ Beat ở Mỹ vào thập niên
1950 : tiểu thuyết gia Jack Kerouac , tác giả Alan Watts , các
thi sĩ Alan Ginsberg và Gary Snyder , và nhiều người khác .
Kế đó bạn có thể dự các lớp dành cho người lớn về
các dạng nghệ thuật Zen như thư
pháp (calligraphy) và ikebana
(cách cắm hoa) hoặc các nghi lễ
như trà đạo hay
bắn cung
. Một khi Madison Avenue khám phá sự hấp dẫn cũa đạo
Phật , Zen trở thành đồng nghỉa với sự
tuyệt hão (cool) , sãn sinh ra hàng
tá sản phẩm mang tên Zen từ mỹ phẩm dưỡng da tới máy
MP3 .
Ông Tomatsu còn cho tôi xem những dấu hiệu
cho thấy , dù sao đi nữa , trái tim cũa Phật giáo Nhật
bản vẫn còn đập . Một dấu hiệu là một tổ chức mà
ông đã giúp thành lập năm 1993 . Có tên là Ayus
, có nghĩa "cuộc sống" , tổ chức này đóng góp
300.000 đô mổi năm cho các nhóm tại Nhật hay quốc tế
hoạt động cho hòa bình và nhân quyền . Hai phần ba cũa
300 hội viên cũa tổ chức này là các tu sĩ Phật giáo .
Cũng có một giáo phái có tên Rissho
Kosei-kai , thành lập năm 1938 và
khoe rằng hiện có 1.800.000 thành viên . Trong khi tuân thủ
chặc chẽ các giáo lý Phật giáo , tổ chức này lại
khác biệt . Đó là một tổ chức ko
theo giáo hội/thế tục (lay group) –
chĩ nhấn mạnh vào việc phục vụ tha nhân/người khác .
Các thành viên bỏ hai bửa ăn mỗi tháng , qua việc đóng
góp tiền cho quỹ hòa bình cũa giáo phái . Rissho Kosei-kai
đã đóng góp gần 60 triệu đô cho Quỹ
Nhi đồng Liên hiệp quốc (UNICEF)
trong 25 năm qua .
Ở tổng hành dinh toàn cầu của giáo phái này
tại Tokyo , phòng thiền định trung ương bề thế có một
dàn đàn ống cao tới trần và những cửa sổ bằng kính
màu – trông giống một nhà thờ Thiên chúa giáo hơn là
một đền Phật giáo . Tomatsu và tôi ngồi dự một lớp
, tiếng
Nhật gọi
là hoza ,
(dharma session)
, tập chú vào những vấn đề xã
hội đang gây khó khăn cho nước Nhật nhưng vẫn là những
cấm kỵ – ít được nói tới như : ly dị , nghiện ma
túy , bịnh trầm cãm , tự tử . Trong một căn phòng lớn
, sáng trưng , được xử dụng cho nhiều mục đích ,
những người tham dự ăn
mặc thường phục , phần lớn là
phụ nữ , ngồi trên những ghế xếp bằng kim loại tạo
thành một vòng tròn không đều chung quanh một người
hướng dẫn/facilitator , để cùng chia sẽ những tình
trạng khó xử cũa cá nhân như rắc
rối về hôn nhân , con cái ko nghe lời , và cha mẹ già
lão . Sau mổi câu chuyện , cã nhóm cho một tràng vỗ tay
ũng hộ . Nên nhớ rằng đạo Phật mới ko chĩ luôn luôn
bàn luận/chăm lo những vấn đề cũa toàn cầu ; bàn ăn
nhà bếp cũng có thể là chiến trường .
Ông Tomatsu cũng giới thiệu tôi tới giáo sĩ
(Rev.) Takeda Takao , một tu sĩ Phật giáo – mà tôi đã
thấy cầm đầu một cuộc phản kháng trước tòa nhà
quốc hội Nhật tại trung tâm Tokyo . Hàng trăm người
biểu tình đã tụ họp để phản đối sự tham dự cũa
Lực lượng Tự vệ
Nhật tại Iraq . Trong cuộc biểu
tình này , ông Takao , trong áo tu sĩ , đứng trên vỉa hè
với những tu sĩ khác mang loa , trống , và một biểu ngử
.
Ông Takao thuộc Nipponzan
Myohoji , một tổ chức Phật giáo
quốc tế thành lập năm 1918 mà những tu sĩ , nam và nử
, tổ chức những cuộc tuần hành cho hòa bình , vừa hát
và đánh trống từ đầu đến cuối (all the way) (cũa cuộc
biểu tình) .
“Biểu tình hòa bình là cách duy nhứt để
tạo nên một hành tinh hòa bình , “ ông nói . Đó là một
kết luận mà ông có sau khi tham gia những cuộc biểu tình
chống việc xây dựng sân
bay Narita tại Tokyo . Trong thập niên
1970 vài cãnh sát và người biểu tình đã chết , và hàng
ngàn người bị thương , khi bảo vệ quyền cũa các nhà
nông trồng rau mà đất đai bị chánh quyền lấy làm phi
đạo . Để ghi nhớ thảm kịch này , dòng tu Nipponzan
Myohoji đã dựng một ngôi chùa hòa bình vào năm 2001 nằm
bên ngoài hàng rào cũa sân bay .
Sau buổi trưa đó , khi máy bay cất cánh từ
sân bay Narita , tôi thoáng thấy ngôi chùa nhỏ xíu màu
trắng . Nó đối chọi với sự phát triển cũa khu kỹ
nghệ màu xám ; (và là) một đài tưởng niệm sáng chói
cho thông điệp ngàn đời cũa đức Phật .
Thật vậy , từ Tokyo tới San Francisco , từ lớp
học trong trại tù tới lớp học cũa người giàu , một
cộng đồng trên toàn cầu cũa
những Phật tử phụng sự xã hội đã bảo đãm rằng
truyền thống này vẫn là một sức mạnh đáng nễ . Trở
lại San Francisco , một ai đó đang nằm trên giường ở
viện dưỡng lão , mà trước kia Carl Taylor đã nằm . Và
bên cạnh người này là một người Phật tử thiện
nguyện khác , chĩ ngồi chứ ko nói gì hết ./.
No comments:
Post a Comment