SỰ TRỔI
DẬY CỦA ĐẠO PHẬT/BUDDHA RISING. PHẦN HAI.
Đăng trên
nguyệt san National Geographic tháng 12 , 2005 (từ trang 92 –
108) .
Tác giả
: Perry Garfinkel
Hình ãnh : Steve McCurry
Hình ãnh : Steve McCurry
Chuyễn ngữ
: Trần anh Tú .
Có một đạo Phật mới trên khắp thế giới
ngày nay . Triết lý của đạo này hiện được áp dụng
vào các cách điều trị
về sức khỏe tâm thần và thể chất
và vào những cải cách
về chính trị và môi trường . Các
lực sĩ dùng triết lý này để trau dồi các môn thi đấu
của họ . Triết lý này giúp các nhà điều hành xí nghiệp
quản lý stress
tốt hơn . Cảnh sát cũng trang bị cho họ triết lý này để
tháo ngòi nổ những
tình huống dể bùng nổ . Những
người đau khổ vì
bịnh kinh niên áp dụng triết lý
này như là một sự
xoa dịu . Sự thích
ứng hiện thời này đang tạo nên
một sự phục sinh của đạo Phật – ngay tại những nước
như Ấn độ , nơi mà đạo này hầu như là biến mất ,
và tại Trung quốc , nơi mà đạo này đã từng bị đàn
áp .
|
Để tìm hiểu về tình trạng vô gia cư , ông Jim Bastien đã tham gia một khóa thiền trong ba ngày bằng cách sống ko có đồng xu dính túi trên các đường phố của TP New York . "Tôi đã cảm nhận thế nào là vô hình (vì ko ai biết mình là ai - Tài) " , ông Bastien nói ; là một người điều hành của một công ty , ông thường là tâm điễm của mọi chú ý (xem hình dưới) . Người Phật tử nhấn mạnh tính thống nhứt của cuộc đời . "Ảo tưởng của sự chia ly/chia cắt , " ông nói , "là nguồn gốc của tất cả đau khổ của con người . "
|
Đạo Phật hiện không chỉ dành cho các nhà sư
hay các người ở phương Tây có thời giờ hay lợi tức
dư dã để học hỏi những gì từ phương Đông . Các
tín đồ Thiên chúa giáo và Do thái giáo thực hành triết
lý này . Những người Mỹ gốc Phi
châu ngồi thiền bên cạnh các người Mỹ gốc Nhật .
Chỉ riêng tại nước Mỹ , một vài chuyên gia ước lượng
rằng , có gần ba triệu người theo đạo Phật . Và theo
một khảo sát năm 2004 , hơn
25 triệu người Mỹ tin tưởng rằng
triết lý cũa đạo Phật đã có ảnh hưởng quan trọng
trên đời sống tâm linh cũa họ .
Chương trình Dưỡng lão
Thiền (Zen Hospice Project) là một ví
dụ của “đạo Phật phụng sự xả hội” , một thuật
ngữ tạo bởi sư ông Thích
Nhất Hạnh , đã rời Việt nam từ
thập niên 1960 vì những hoạt động phản chiến bất bạo
động . Vẫn còn dấn thân ở tuổi 79 , ông đã về thăm
quê hương ba tháng trong năm nay – kỹ niệm 30 năm ngày
Cộng Sản làm chủ Việt nam – để truyền bá triết lý
đạo Phật tại nơi mà ông từng là khất sĩ (pariah) .
Tại miền Tây Nam nước Pháp , ở trung tâm
thiền của Làng Mai
, ông thường xuyên mời nhiều nhóm trong đó có các nhóm
người Palestine và Do thái dự các buổi hội thảo để
tìm giải pháp cho xung đột và hòa đàm . Những buổi hội
thảo này thường bắt đầu với sự thù nghịch
(animosity) , sư ông nói với tôi , và thường kết thúc
bằng những ôm hôn .
“Những cuộc hội thảo này khởi đầu bằng
một câu châm ngôn cổ: 'Không làm điều gì hết , chỉ ngồi đó thôi', “sư ông nói với giọng nhẹ nhàng.
Dáng người mãnh khãnh với tai to và mắt sâu, sư ông
ngồi trên hành lang của ngôi nhà tranh nhìn ra vườn nho
giống Bordeaux xanh rì, “Với công tác phụng sự xã hội
này, đầu tiên bạn phải học những điều Phật dạy,
là để tâm yên tĩnh. Kế đó, bạn đừng hành động
gì cả ; hành động sẽ cuốn hút bạn.
Tất-đạt-đa Cồ-đàm
(Siddhartha Gautama) - sinh năm 563 và chết năm 483 trước
Công nguyên, thọ 80 tuổi - người sau này được biết
như là đức Phật, đã ra đời vào khoãng 500 năm trước
Công nguyên gần chân rặng núi Hy mã Lạp sơn, là con cũa
một vị vua trong khu vực. Trong những thế kỷ sau khi
ngài qua đời, khi tiếng tăm ngày càng phát triển, sự
thật và huyền thoại bện vào nhau, và nhiều truyền
thuyết về đức Phật đã ra đời. Theo một truyền
thuyết , đức Phật đã khoan thai bước ra từ hông cũa
mẹ ngài khi mới sinh và đi bảy bước trong bốn hướng, với hoa sen xuất hiện dưới chân.
Tuy nhiên, phần lớn các truyền thuyết đồng
ý ở điểm, ở độ tuổi 29, vị hoàng tử đã có vợ
này, thoát khỏi ảo tưởng về sự giàu có của mình,
mạo hiểm rời bỏ lâu đài và lần đầu tiên thấy được
sự già lão, bịnh tật, và chết chóc. Sau khi thấy
được những thực tế đau khổ cũa cuộc đời, ngài
quá xúc động đến độ ngài đã rời tòa lâu đài tiện
nghi để tìm cách chấm dứt sự đau khổ của con người. Trong sáu năm , ngài đã chịu đựng những thiếu thốn
mà những người tầm đạo như ngài đã áp dụng – như
nhịn đói, chiêm nghiệm sự tĩnh lặng , sống một mình
trong một cái hang – cho tới khi ngài nhận ra rằng ngài
đã ko tìm thấy cái mà ngài muốn.
Phải là một con đường khác , ngài nghĩ như
vậy, một “con đường ở giữa “ lối tu quá sung
sướng và lối tu quá khắc khổ. Ngài đã quyết định
ngồi
thiền định (meditation) dưới một
trong những bóng cây đa
lớn – mọc rãi rác trên bình nguyên sông Hằng cho tới
khi tìm câu trả lời. Ngài đã xem xét những ý tưởng
của ngài để khám phá làm thế nào và tại sao con người
thường tạo ra sự đau khổ về tâm thần cũa chính họ. Từ dưới bóng cây này , ngài đã trở thành Phật, với
nghĩa đơn giản là “người
đã giác ngộ”. (Cây này , tên
khoa học là Ficus
religiosa , hiện nay được biết như
cây đồ đề/bodhi
tree). Cho tới khi ngài chết ở tuổi 80 , đức Phật đã
đi lại theo hành lang mà nay là các bang Bihar và Uttar
Pradesh của Ấn độ , và chia sẽ những hiểu biết cũa
ngài với tất cả những ai muốn nghe .
Những tư tưởng của ngài đã ko
dựa vào niềm tin, như trong các
tôn giáo khác, nhưng dựa vào sự quan
sát qua kinh nghiệm, đã bắt đầu
có từ khi ngài đi ra khỏi hoàng cung. Ngài đã tìm ra Tứ
Diệu Đế (Four Noble Truths) :
- Có đau khổ trong thế giới này , hoặc là tinh thần hay là thể chất .
- Đau khổ xãy ra khi người ta bám víu/gắn bó với dục vọng của họ (too great an attachment to one's desires) .
- Khi triệt tiêu nguyên nhân này – sự bám víu/gắn bó - bạn có thể triệt tiêu đau khổ .
- Có một phương pháp để triệt tiêu nguyên nhân này, được gọi là Bát Chánh Đạo (Eightfold Path) , một hướng dẩn để có được hành vi và tư tưởng “đúng”. Bát Chánh Đạo là một kim chỉ nam về tinh thần đưa ta tới : chánh kiến, chánh tư duy , chánh ngữ , chánh nghiệp , chánh mạng , chánh tinh tấn , chánh niệm , và chánh định .(Chú thích của người dịch : muốn tìm hiểu thêm về Bát Chánh Đạo , xin vào :http://www.lesyminhtung.net/index.php?option=com_content&view=article&id=268:09b-bat-chanh-dao-the-nobble-eightfold-path&catid=36:bat-nha-tam-kinh-giang-giai-vo-thuong-niet-ban&Itemid=34 . )
Một trong những thực hành quan trọng của Bát
Chánh Đạo là thiền
định . Dù cho kỹ thuật này khác
nhau giữa các giáo phái – ngồi một mình hay trong một
nhóm, nhìn vào tường (diện bích) hay người hướng dẩn
về thiền , mắt nhắm hay mở hé , trong im lặng hay tụng
kinh – các cách thức đều bắt
đầu bằng cách chú ý sát sao từng hơi thở cũa mình .
Không có bất cứ cái gì thần bí hay thuộc về thế giới
bên kia (mystical or other-worldly) trong điều này , không có
sự lơ lửng trên không , không có kinh nghiệm xuất hồn
(out-of-body experience) . Với mỗi hơi thở ra và vào sự
nhận thức/quán chiếu của chúng ta trở nên tinh tế hơn
, tập trung hơn .
Khi thở vào … bạn sẽ nhận thức được các
cảm giác của cơ thể bạn, và bộ phận dễ sao lãng nhứt
của bạn , đó là ý nghĩ/tinh thần/niệm . Khi thở ra …
bạn cảm nghiệm sự căng thẳng của cơ thể bạn được
nhả ra/phóng thích , và bạn cố gắng để đưa cái ý
nghĩ/tinh thần/niệm đang lang thang của bạn trở vào hơi
thở . Khi thở vào … không khí mơn trớn đầu mũi cũa
bạn . Khi thở ra … cơn đau ở đầu gối cũa bạn giảm
đi , nhưng ý nghĩ/tinh thần/niệm vẫn còn đi lang thang .
Khi thở vào …tôi có nên làm điều gì hữu ích hơn
trong lúc này không ? Khi thở ra … ai là ”tôi” trong ý
nghĩ vừa rồi ? Khi sự thiền định này càng tinh tế hơn
, dù có lúc bạn đau đớn hay vui sướng , nhưng cuối
cùng bạn sẽ nhận ra
điều mà đức Phật đã nhận thức
được . “Bạn là cái
mà bạn suy nghĩ,” ngài nói .
Đức Phật đã ko hề muốn ý tưỡng cũa ngài
thành một tôn giáo ; thực tế ngài đã khuyên chúng ta ko
nên đi theo bất cứ con đường hay sự hướng dẩn nào
mà ko tự mình thử
nghiệm . Những lời cuối cùng của
ngài trước khi chết , được kể như sau : “ Bạn
hãy tự mình đốt đuốc soi đường cho chính bạn.”
Tuy nhiên , trong vòng vài trăm năm sau khi ngài qua đời ,
những lời dạy cũa đức Phật ngày càng có nhiều người
theo . Ngày nay , với 379 triệu tín đồ , Phật giáo là
tôn giáo đứng hàng
thứ năm trên thế giới , sau Thiên
chúa giáo với 2,1 tỉ tín đồ , Hồi giáo với 1,3 tỉ , Ấn
độ giáo với 870 triệu , và tôn giáo cổ truyền cũa
Trung Hoa (Khỗng giáo) với 405 triệu .
|
Mọi người tụ họp ở nhà
ông Paul Pryde tại Washington , D.C. , để thực hành Soka
Gakka , một trong những giáo phái xuất phát từ nguồn
của đạo Phật : đó là những lời dạy từ 2.500 năm
trước của Sĩ đạt ta Gau Ta Ma . " Bạn có hạnh
phúc hay không , đều do nhận thức
của bạn đối với hoàn cảnh/tình huống ; chứ
không phải là từ những hoàn cảnh/tình huống này
(Whether you're happy or not has less to do with circumstances
than with how you perceive them) , ông Pryde nói . " Đạo
Phật cung cấp cho bạn một phương thức/chế độ để
bạn sống một cuộc sống hạnh phúc hơn . "
|
Tranh thủ giờ nghỉ từ một
thế giới bận rộn , các người dân New York này đến
Trung tâm Thiền Shambhala để thiền tập thể .
|
Thực phẩm đóng hộp ,
sô-cô-la , ngay cả chip khoai tây - hầu như mọi tặng
phẩm làm từ đồ chay đều được đón nhận bởi
các vị sư của tu viện Shasta ở bắc California
(gần ranh giới với bang Oregon) . Đổi lại , họ sống
đơn giản và cố gắng đè nén những dục vọng khiến
con người sa ngã .
|
Một số người đã chỉ rõ/chứng tỏ rằng
Phật đã đúng , rằng ta không nên xem đạo Phật là một
tôn giáo nhưng nên là một triết học hay một dạng tâm
lý học . Sau cùng , ko như các tôn giáo khác , ko có nhân
vật tối thượng , và đạo Phật khuyên bạn nên đặt
câu hỏi/chất vấn – hay thách thức – giáo
quyền/giáo hội/authority .
Có nhiều người trong thế hệ cũa tôi , trưởng
thành từ nửa sau của thế kỷ 20 , đã bị lôi cuốn bởi
những điểm trên của đạo Phật . Đạo Phật ko giáo
điều (chúng tôi ko tin vào giáo quyền ; đạo Phật chỉ dựa trên bằng chứng mà bạn có thể kiểm tra với chính
giác quan của bạn (chúng tôi đang ở thời đại mà khoa
học là thượng đế
mới) ; đạo Phật gợi ý rằng bạn
, chứ ko phải quyền lực bên ngoài bạn , quyết định
về hạnh phúc cũa bạn (chúng
tôi là những người ở tuyến đầu của thập niên 1970 ,
còn được gọi là Me Decade) ; đạo Phật đã xem ý
tưỡng/tinh thần cũa chúng ta vừa
là chướng ngại vừa là chìa khóa để
thực sự hiểu về chính chúng ta (chúng tôi xử dụng
phân tâm học hay bác sĩ Freud) .
Trong khi nhiều người Âu châu hay Mỹ bị lôi
kéo những lễ nghi hoa mỹ và phức tạp của Phật giáo
Tây tạng hay Thiền của người Nhật , những người khác
hình như thích sự đơn giản của Phật giáo Tiểu thừa
(Theravada Buddhism) của vùng Đông Nam Á . Từ truyền thống
này , tôi thực hành vipassana
, thiền
định “chánh niệm” . Điều này
tuy ko giúp tôi đạt được giác ngộ – nhưng đã giúp
tôi có cái nhìn rõ hơn đối với các câu hỏi sau đây
– mà tôi vẫn còn thắc mắc : Tôi là ai ? Tại sao tôi
lại ở đây ? Làm thế nào tôi có thể đạt được hạnh
phúc lâu dài ?
Để minh chứng cho tính
thích ứng cũa đạo Phật , kỹ
thuật thiền định mà tôi đang áp dụng đã trở thành
một chương trình cải tổ lao tù đầy sáng tạo đang
phát triển khắp Ấn độ .
“ Tôi ko ở tù , mà đang thực hành vipassana
(thiền định chánh niệm) , “ tù nhân Hyginus Udegbe nói.
Đã chờ đợi 4 năm rưởi để chờ kêu án về tội sở hữu cocaine , anh Hyginus , người Nigeria , bị giữ tại Tổ
hợp Lao tù Tihar ở New Delhi . Đây là một trong những
trại tù lớn nhứt Á châu , với gần 13.000 tù nhân , hơn
hai lần khả năng cũa nó . Cuộc sống quá chật chội ,
điều kiện vệ sinh ko đầy đủ , và một ban giám thị
đôi khi phải dùng đến trấn áp và đối
xử độc ác các tù nhân đã biến
trại này thành một địa ngục sống với nhung nhúc tù
nhân .
Nhưng đối với Hyginus và hàng ngàn tù nhân
khác ở Ấn độ , thực hành thiền định chánh niệm đã
biến đỗi trại tù này thành một ốc đảo đễ tự suy
gẫm (self-reflection) và phục hồi . Cứ hai tuần thì có
khóa học vipassana trong mười ngày ở một khu biệt lập
và im lặng thuộc Trại tù số 4 . Tù nhân có thể tham dự
khóa học mỗi ba tháng và nhiều người đã tham gia .
“ Tôi bị áp huyết cao và mất ngủ , “ anh
Hyginus , một người ngực to , đầu hói , cao sáu bộ Anh
(1,83 m) có dáng dấp một đấu thủ hơn là một người
học thiền . Sau lưng chúng tôi , được vẽ trên một bức
tường cao là một bánh xe màu vàng , biểu tượng truyền
thống cũa giáo lý cũa Phật , hay dharma (pháp) . “Sau khóa
thiền đầu tiên ở đây, “ Hyginus nói , “áp huyết tụt
xuống , và tôi đã ngủ 10 giờ mỗi tối . Trước kia ,
tôi thường nóng nảy ; nay tôi cảm thấy mình giống như
bồ câu , rất hiền ; tôi rất hạnh phúc . “
Tôi còn ngạc nhiên hơn khi nói chuyện với một
người 14 năm làm giám thị trại tù Tihar . Ông ta đã dự
ba khóa thiền ở đây , hoàn toàn tự nguyện . “ Tôi
muốn tự tôi trải nghiệm những điều mà tôi nghe nói
về vipassana , “ ông ta kể cho tôi . “ Trước khóa thiền
này , tôi thường đánh tù nhân . Tôi đã căng thẳng đến
độ đã biến mình thành một quái vật . Sau khóa thiền
, tôi cảm thấy mình nhân đạo hơn . Giờ đây , nhiều tù
nhân đến với tôi để hỏi ý kiến (for counseling) .
" Chúng ta đều là tù nhân – của ý
tưỡng/tinh thần cũa chúng ta , " ông Satya
Narayan Goenka , một doanh gia người
Miến điện 80 tuổi nay trở thành một thày dạy thiền ở
Ấn độ ; ông là người dẩn đầu sự trổi dậy của
vipassana ở Ấn độ . “ Có nơi nào để nhận ra điều
này tốt hơn là sau chấn song sắt ? “ Thật vậy , trên
các trại tù trên toàn thế giới , các nhóm thiền nay
thường xuyên gặp nhau . Thực hành các kỷ thuật này ,
các khảo sát cho thấy , tù nhân sẽ giảm bớt nổi đau
khổ cũa họ và ít gây sự với tù nhân khác .
“Tôi ko thuyết giảng đạo Phật , “ Goenka
nói với tôi một cách dứt khoát khi tôi gặp ông tại
nhà ở Mumbai . Ông ta là một người to nhưng thanh nhã ,
với một giọng trầm oang oang . “ Tôi ko có ý chuyển
đổi một người từ đạo này sang đạo khác . Tôi chỉ quan tâm chuyển đỗi người ấy từ đau khổ sang hạnh
phúc , từ trói buộc sang giải thoát , từ độc ác sang
sự thương cãm .
“ Không có gì bí ẩn trong vipassana , “ ông
ta tiếp tục với tiếng cười khúc khích với cái bụng
to lắc lư . “ Vipassana có nghĩa "
thấy
mọi sự vật như thật bản chất của chúng ngay trong lúc
quan sát " . Sau khi theo dỏi
hơi thở trong vài ba ngày , bạn bắt đầu để ý đến
các cảm giác cũa bạn . Bạn nhận ra một cách nhanh chóng
rằng bạn đã bị ám ảnh bởi những
sự thèm muốn
– thực phẫm , sự nồng hậu ,
tất cả mọi loại thèm muốn – và ác
cãm với những điều mà bạn ko
thích . Rồi bạn nhận ra tất cả đều là vô
thường . Mọi sự đều thay đỗi
. Từ những nhận thức đơn giản này , được khám phá
bởi mọi người bắt đầu từ đức Phật , một triết
lý cuối cùng được mở ra . “
(còn tiếp)
San Jose
ngày thứ hai 10 Sep 2012 lúc 0938 pm , sau ba ngày liên tiếp
bỏ công sức để dịch thuật bài báo này .
No comments:
Post a Comment